“Nếu người ta hiểu biết đầy đủ về tình hình kinh tế của xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định thì có thể giải thích rất dễ tốt cả mọi hiện tượng lịch sử”
 Ph.Ang-ghen (Mác – Ang-ghen tuyển tập, T.IV, t.510)
Lần theo sợi dây lịch sử nhận thức:
Lý luận, kinh tế thị trường ra đời trong-giai đoạn nở rộ các lý thuyết phát triển, bắt đầu từ những năm 50.
Các lý thuyết phát triển (có người gọi là khoa học phát triển) đáng chú ý trong thời gian này là:
– Lý thuyết phát triển cân tàng (của Nurtse)
– Lý thuyết phát triển nhị nguyên (của Lenis, 1955)
– Lý thuyết “Cú hích lớn” (của Rosensten – Roden, 1957)
– Lý thuyết các giai đoạn tăng trưỏng (của Roston, 1960)
Trải qua mấy thập kỷ tiếp theo, thực tiễn kinh tế – xã hội phát triển đòi hỏi nhìn lại, đánh giá lại các lý thuyết đó và đê xuất những vấn đè mới. Thuộc loại này, có những cống trình đáng chú ý sau đây:
– Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật bản (của Saburo Okita, 1980).
– Làn sổng thứ ba (của A.Toffler, 1980).
– Kinh tế học của sự phát triển (của 4 giáo sư đại học Harward,
1983). ‘
– Những người tiên phong của sự phát triển (của 10 nhà khoa học vê các Thuyết phát triển tự đánh giá lại, 1988).
– Một thế giới không thể chấp nhận được (của Rơ-nê Duy- mông, 1,988)
– Tổng quan kinh tế học của sự phát triển (của N.Stera, 1989) ,
– Thăng trầm quyềnn lực (của A.Toffler,19ÔO).
• Sự thách thức của phát triển (của Ngân hàng thế giới, 1991).
– Lý thuyết phầt triển và các giải pháp trong nên kinh tế thị trường (của j.B.Nugent, 1991).
– Kên kinh tế thị trường>- xã hội ồ CHLB Đức (của Norbert Kloten, 1991)
Chúng tôi liệt kê khá nhiều công trình, theo sự lựa chọn các mặt đề cập khác nhau của qúa trình nhận thức, nhằm nêu lên nhận xét rằng: rõ ràng là ở nửa sau thế kỷ này, nên kinh tế thế giới có nhiêu biến đổi căn bản, chứa đựng những tỉềm năng phát triển hoàn, toan khốc với giai đoạn trước và với nhip độ nhanh chồng lạ thường:
Thực tiễn mới mẻ và biến đổi nhanh đó đã được phản ánh vào tính đa dạng của lý thuyết phát triển ở các thời điểm khác nhau.
Tính đa dạng của lý thuyết phát triển, khi đi vào cuộc sống, lại thể hiện ở tính đa dạng của chiến lược phát triển ở các nước, nhất là các nước đang phát triển với những kết qủa khác nhau.
Có thể khái quát bước đầu có mấy loại chiến lược kỉnh tế khác nhau:
a) Chiến lược kinh tế mở cửa: dựa trên vai trò của thị trường thế giới và kinh tế tư nhân bên trong. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và thu hút với bên ngoài.
b) Chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu: dựa vào xuất khẩu (khác với chiến lược thay thế nhập khẩu) đê tích lũy, hiện đại hóa cơ sò kỹ thuật. Nhà nước tập trung phát triển công nghiệp nặng.
c) Chiến lược “cách mạng xanh”: nhằm tạo tích lũy và xây dựng công nghiệp băng cách phát triển nông nghiệp, tạo việc làm nhiêu hơn.
d) Chiến lược ở các nước XHCN trước đây: hướng vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
đ) Chiến lược dựa trên quan niệm kinh tế thị trường – xã hội: coi trọng mặt xã hội của kinh tế thị trường, coi trọng phân phối lại nâng cao thu nhập cho người nghèo. Đề xuất vai trò nhân tố con người cao hơn cơ sỏ kỹ thuật.
Thời gian trôi đi đần đàn cho thấy kết qủa khác nhau và hạn chế của những chiến lược đó.
Nhìn tổng quát: chưa có một chiến lược đây đủ cho sự phát triển tổng thể nền kinh tế, kể cả những chiến lược đã thành công thì cũng còn nhiêu vấn đề gay gắt (ở đây, khổng đê cập những mục đích chính trị trong các chiến lược của một số cường quốc). Điêu khiếm khuyết trong các chiến lược có nguồn gốc từ tinh trạng chưa rõ ràng, chinh xác của lý thuyết phát triển.
Nguyên nhân của tình hình cả lý thuyết và chiến lược chưa hoàn thiện, thậm chí còn sai lầm là vì: Phản ảnh sự phát triển nhanh chóng < ủa thực tiễn, bản thân kinh tế học đang trong bước qúa độ lên một trình độ mới, nên chưa đủ tầm khái quát, tổng hợp ba mối quan hệ cơ bản đang tác động đến sự phát triển:
a) Mối quan hệ quốc tế – dân tộc: Xu thế quốc tế hóa về mặt kinh tế và lợi ích dân tộc.
b) Mối quan hệ giữa qúa khứ – hiện tại của dân tộc: yêu cầu phát triển hiên nay với những tư tưởng và truyền thống tích cực hay lạc hậu của dân tộc.
c) Mối quan hệ vĩ mô – vi mô: phương hướng và chính sách, phát triển và trình độ quản lý của Nhà nước với yêu ( phát triển của các cơ sở.
Những điều trình bày trên .đây muốn nối răng, khỉ chúng ta lần theo sợi dây của lịch sử tư tưởng kinh tế mới thấy rõ việc tiếp cận vấn đê kỉnh tế thị trường không đơn giản như các quan niệm khấc nhau đã nêu ở phần mở đầu. Muốn đần đần nhận thức đứng kinh tế thị trường và vận dụng vào điều kiện nước, phải bắt đầu từ phân tích những đặc trưng cơ bản của nó.
Lần theo sợi dây lịch sử nhận thức:
Lý luận, kinh tế thị trường ra đời trong-giai đoạn nở rộ các lý thuyết phát triển, bắt đầu từ những năm 50.
Các lý thuyết phát triển (có người gọi là khoa học phát triển) đáng chú ý trong thời gian này là:
– Lý thuyết phát triển cân tàng (của Nurtse)
– Lý thuyết phát triển nhị nguyên (của Lenis, 1955)
– Lý thuyết “Cú hích lớn” (của Rosensten – Roden, 1957)
– Lý thuyết các giai đoạn tăng trưỏng (của Roston, 1960)
Trải qua mấy thập kỷ tiếp theo, thực tiễn kinh tế – xã hội phát triển đòi hỏi nhìn lại, đánh giá lại các lý thuyết đó và đê xuất những vấn đè mới. Thuộc loại này, có những cống trình đáng chú ý sau đây:
– Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật bản (của Saburo Okita, 1980).
– Làn sổng thứ ba (của A.Toffler, 1980).
– Kinh tế học của sự phát triển (của 4 giáo sư đại học Harward,
1983). ‘
– Những người tiên phong của sự phát triển (của 10 nhà khoa học vê các Thuyết phát triển tự đánh giá lại, 1988).
– Một thế giới không thể chấp nhận được (của Rơ-nê Duy- mông, 1,988)
– Tổng quan kinh tế học của sự phát triển (của N.Stera, 1989) ,
– Thăng trầm quyềnn lực (của A.Toffler,19ÔO).
• Sự thách thức của phát triển (của Ngân hàng thế giới, 1991).
– Lý thuyết phầt triển và các giải pháp trong nên kinh tế thị trường (của j.B.Nugent, 1991).
– Kên kinh tế thị trường>- xã hội ồ CHLB Đức (của Norbert Kloten, 1991)
Chúng tôi liệt kê khá nhiều công trình, theo sự lựa chọn các mặt đề cập khác nhau của qúa trình nhận thức, nhằm nêu lên nhận xét rằng: rõ ràng là ở nửa sau thế kỷ này, nên kinh tế thế giới có nhiêu biến đổi căn bản, chứa đựng những tỉềm năng phát triển hoàn, toan khốc với giai đoạn trước và với nhip độ nhanh chồng lạ thường:
Thực tiễn mới mẻ và biến đổi nhanh đó đã được phản ánh vào tính đa dạng của lý thuyết phát triển ở các thời điểm khác nhau.
Tính đa dạng của lý thuyết phát triển, khi đi vào cuộc sống, lại thể hiện ở tính đa dạng của chiến lược phát triển ở các nước, nhất là các nước đang phát triển với những kết qủa khác nhau.
Có thể khái quát bước đầu có mấy loại chiến lược kỉnh tế khác nhau:
a) Chiến lược kinh tế mở cửa: dựa trên vai trò của thị trường thế giới và kinh tế tư nhân bên trong. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và thu hút với bên ngoài.
b) Chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu: dựa vào xuất khẩu (khác với chiến lược thay thế nhập khẩu) đê tích lũy, hiện đại hóa cơ sò kỹ thuật. Nhà nước tập trung phát triển công nghiệp nặng.
c) Chiến lược “cách mạng xanh”: nhằm tạo tích lũy và xây dựng công nghiệp băng cách phát triển nông nghiệp, tạo việc làm nhiêu hơn.
d) Chiến lược ở các nước XHCN trước đây: hướng vào phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
đ) Chiến lược dựa trên quan niệm kinh tế thị trường – xã hội: coi trọng mặt xã hội của kinh tế thị trường, coi trọng phân phối lại nâng cao thu nhập cho người nghèo. Đề xuất vai trò nhân tố con người cao hơn cơ sỏ kỹ thuật.
Thời gian trôi đi đần đàn cho thấy kết qủa khác nhau và hạn chế của những chiến lược đó.
Nhìn tổng quát: chưa có một chiến lược đây đủ cho sự phát triển tổng thể nền kinh tế, kể cả những chiến lược đã thành công thì cũng còn nhiêu vấn đề gay gắt (ở đây, khổng đê cập những mục đích chính trị trong các chiến lược của một số cường quốc). Điêu khiếm khuyết trong các chiến lược có nguồn gốc từ tinh trạng chưa rõ ràng, chinh xác của lý thuyết phát triển.
Nguyên nhân của tình hình cả lý thuyết và chiến lược chưa hoàn thiện, thậm chí còn sai lầm là vì: Phản ảnh sự phát triển nhanh chóng < ủa thực tiễn, bản thân kinh tế học đang trong bước qúa độ lên một trình độ mới, nên chưa đủ tầm khái quát, tổng hợp ba mối quan hệ cơ bản đang tác động đến sự phát triển:
a) Mối quan hệ quốc tế – dân tộc: Xu thế quốc tế hóa về mặt kinh tế và lợi ích dân tộc.
b) Mối quan hệ giữa qúa khứ – hiện tại của dân tộc: yêu cầu phát triển hiên nay với những tư tưởng và truyền thống tích cực hay lạc hậu của dân tộc.
c) Mối quan hệ vĩ mô – vi mô: phương hướng và chính sách, phát triển và trình độ quản lý của Nhà nước với yêu ( phát triển của các cơ sở.
Những điều trình bày trên .đây muốn nối răng, khỉ chúng ta lần theo sợi dây của lịch sử tư tưởng kinh tế mới thấy rõ việc tiếp cận vấn đê kỉnh tế thị trường không đơn giản như các quan niệm khấc nhau đã nêu ở phần mở đầu. Muốn đần đần nhận thức đứng kinh tế thị trường và vận dụng vào điều kiện nước, phải bắt đầu từ phân tích những đặc trưng cơ bản của nó.

 






 
 
 
 
 
 
 
 
