Đó là sự tác động của Nhà nước vào qúa trình tái sản xuất xã hội bằng các biện pháp kinh tế, chủ yếu thông qua chính sách tài chính và tiền tệ – tín dụng (quan điểm của các nước kinh tế thị trường phát triển). Quả thật trong nền kinh tế hỗn hợp ở mọi nước cả hai bên (thị trường là Nhà nước) điều là căn bản, như Paul. A. Samueison nói: quản lý kinh tế mà thiếu cái này hay cái kia thì giống như vỗ tòng một tay. Tùy thuộc hoàn cảnh cụ thể, chiến lược và sách lược mà mỗi nước chọn cho mình một cơ chế điều tiết vĩ mô hợp lý? Chẳng hạn, mồ hình điêu tiết của Trung Quốc: Nhà nước điêu tiết thị trường, thị trường định hướng xí nghiệp, ở mỗi giai đoạn Nhật áp dụng cơ chế khác nhau:
1/ Sau chiến tranh đến 1965: từ nền kinh tế quân phiệt (tập trung cao) sang thị trường, Nhật áp dụng cơ chế chủ yếu mang tính kiểm soát hành chính trực tiếp đối với sản xuất.
2/ Tiếp đến giai đoạn khủng hoảng 1973 – 1974: cơ chế điều tiết Nhà nước mang tính chỉ dẫn gián tiếp.
3/ Hiện nay điều tiết Nhà nước hạn chế ở việc soạn thảo dự báo mô hình phát triển, tạo ra điều kiện kinh tế cần thiết cho thực hiện những định hướng của Chính phủ, trong đó cơ chế thị trường đóng vai trò động lực, hơn nữa cơ chế này đã khác xưa rất nhiều.
Hiện nay xu hướng cơ bản ở Nhật là:
– Chuyển một phần chức năng, quyền lực (cả vấn đề kinh tế) cho các cơ quan địa phương tự quản lý.
– Cùng với quá trình trên là phi tập trung các nguồn tài chính, chuyển xuống cơ sở.
1/ Sau chiến tranh đến 1965: từ nền kinh tế quân phiệt (tập trung cao) sang thị trường, Nhật áp dụng cơ chế chủ yếu mang tính kiểm soát hành chính trực tiếp đối với sản xuất.
2/ Tiếp đến giai đoạn khủng hoảng 1973 – 1974: cơ chế điều tiết Nhà nước mang tính chỉ dẫn gián tiếp.
3/ Hiện nay điều tiết Nhà nước hạn chế ở việc soạn thảo dự báo mô hình phát triển, tạo ra điều kiện kinh tế cần thiết cho thực hiện những định hướng của Chính phủ, trong đó cơ chế thị trường đóng vai trò động lực, hơn nữa cơ chế này đã khác xưa rất nhiều.
Hiện nay xu hướng cơ bản ở Nhật là:
– Chuyển một phần chức năng, quyền lực (cả vấn đề kinh tế) cho các cơ quan địa phương tự quản lý.
– Cùng với quá trình trên là phi tập trung các nguồn tài chính, chuyển xuống cơ sở.
Nếu như khủng hoảng 1929 – 1933 đã đưa quan điểm điều tiết vĩ mô của Kenys (gia tăng can thiệp Nhà nước) trỗ thành vai trò thống trị, thì khủng hoảng thế giới 1973 – 1974, sự can thiệp quá mức của Nhà nước (bao gồm cả hành chính, trực tiếp) trong những năm 70 đã phá sản quan điểm của Kenys và những người theo ông. Từ những năm 80 đến nay, vai trò chỉ đạo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến chính sách đỉêu tiết Nhà nưổc ở mọi quốc gia TBCN đã chuyển sang trường phái tự do mới (ở một số nước gọi là bảo thủ). Tư tưởng chính của họ: duy trì tỉên tê ổn định, giảm chi ngân sách, giảm đến mức tối thiểu sự can thiệp Nhà nước, giảm mạnh các mức thuế nhằm khuyến khích cung và giảm giá, duy trì lạm phát ổn định ở mức thấp, xem cơ chế thị trường là động lực. Thực tế kinh tế các nước phát triển giai đoạn 70 và hiện nay cho phép khẳng định: trong kinh tế thị trường sự gia tăng can thiệp Nhà nước là có giới hạn, vượt qua nó Nhà nước trở thành mốí đe dọa thực sự cho hoạt động bình thường của nền kinh tế.

 






 
 
 
 
 
 
 
 
