Trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô không phải trong mọi trường hợp, các mục tiêu đều bổ sung cho nhau mà.thông thường là xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột giữa các mục tiêu. Chẳng hạn, giảm tỷ lệ lạm phát và giảm tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh với tỷ lệ lạm phát thấp v.v... Bởi vậy, chính sách kinh tế vĩ mồ còn bao gốm sự lựa chọn giữa những mục tiêu trung tâm mà sự lựa chọn thường diễn ra không đơn giản. Chính phủ. giữ vai trò quyết định lựa chọn mục tiêu trung tâm, bố trí trật tự ưu tiền cho từng mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều này được thể hiện qua việc Chính phủ phân biệt giữa chính sách ổn định kinh tế và chính sách điều chỉnh cơ cấu trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Theo cách phân biệt của IMF và WB, mục tiêu của chính sách ổn định tập trung giải quyết những vấn đề có tính chất cấp bách, những vấn đề trước mắt như cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lê lạm phát thấp còn mục tiêu trước hết của chính sách điều chỉnh là đẩy nhanh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Sự phân biệt trên có ý nghĩa trong việc bố trí sử dụng các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô và tác động đến việc bố trí, phấn bổ và bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của hến kinh tế, để cuối cùng bảo đảm thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Theo cách phân biệt của IMF và WB, mục tiêu của chính sách ổn định tập trung giải quyết những vấn đề có tính chất cấp bách, những vấn đề trước mắt như cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lê lạm phát thấp còn mục tiêu trước hết của chính sách điều chỉnh là đẩy nhanh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Sự phân biệt trên có ý nghĩa trong việc bố trí sử dụng các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô và tác động đến việc bố trí, phấn bổ và bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của hến kinh tế, để cuối cùng bảo đảm thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Vấn đề được Chính phủ ở tất cả các nền kinh tế thị trường hết sức quan tâm trong xử lý chính sách và trong điều hành cụ thể là bảo đảm sự hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu bảo đảm sự ổn định xã hội, mà trực diện là công băng xã hội. Đây là một mâu thuẫn phải xử lý lâu dài và thường xuyên trong đời sống kinh tế, vừa phải bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đối với ổn định xã hội và công bằng xã hội, nhưng không vì mục tiêu về xã hội và công bằng xã hội mà đưa ra những công cụ chính sách làm cản trở, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế (ở đây, công bằng xã hội cần được hiểu theo nghĩa là công bằng từ trong khỏi nghiệp, tức là mọi người được tự do, tự tạo việc làm và cơ hội kinh doanh và sau đó công bằng trong phân phối thu nhập.
Quá trình này luôn diễn ra trong khuôn khổ của cơ chế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước.
Cộng hòa Liên bang Đức chủ trương giải quyết những mục tiêu kinh tế luôn gắn bó với các mục tiêu xã hội trong mô hình kinh tế thị trường xã hội.
Ở nước ta, nhận thức về sự gắn bó giữa kinh tế và xã hội trên thực tế được đặt ra từ nhiều kế hoạch 5 năm và gân đây được xác định rõ hơn cả ve mục tiêu, giải pháp trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2000, trong kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 …
Vấn đề đặt ra hiện nay là từ trong thiết kế các chính sách kinh tế vĩ mô đến việc bố trí các công cụ kinh tế trong điều hành phải bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên quan điểm “Tất cả vì con người”.
Từ khóa tìm kiếm nhiều:
kinh
tế thị trường, khái
niệm nền kinh tế thị trường

 






 
 
 
 
 
 
 
 
