Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trinh chuyền sang kinh tế thị trường:
Vấn đề then chốt là làm sao thực hiên một cách hiệu quả nhất quá trình chuyển đổi cơ chế. Rõ ràng không có giải pháp chung cho mọi quốc gia, bước đi đâu tiền sang cơ chế mới là “Hãy chấm dứt việc sao chép những mô hình kinh tế không thích hợp, đừng tự hủy hoại mình bởi việc sao chép mô hình các nước phương Tây
Tuy vậy quá trình này cũng có những nét chung:
Vấn đề khu vực kinh tế quốc doanh. Nhìn chung ngày càng khó duy trì vì mức độ sử dụng (phí tổn) của nó ở đa số các nước XHCN lớn hơn nhiều mức cống hiến cho xã hội. Đầu tư (nhân tài vật lực) đổ vào đấy quá nhiều nhưng không cho ra hiệu quả. Ngành quốc doanh trở thành biểu hiện cho hoạt động kinh tế kém cởi của Nhà nước. Sự thua lỗ của khu vực này một mặt gây sức ép tài chính nghiêm trọng, mặt khác tạo ra áp lực lạm phát, hạn chế sự năng động của Chính phủ. Vì vậy phải đóng cửa, giảm số lượng và cải tổ chúng.
Sản xuất được quyết định bởi quan hệ cung – cầu thì hiệu quả mới được nấng lên, khi kế hoạch quyết định theo tiêu chuẩn chính trị thi sự méo mó của toàn bộ nền kinh tế sẽ hết sức nghiêm trọng và điều chỉnh sẽ rất đau đớn.
Vấn đề then chốt là làm sao thực hiên một cách hiệu quả nhất quá trình chuyển đổi cơ chế. Rõ ràng không có giải pháp chung cho mọi quốc gia, bước đi đâu tiền sang cơ chế mới là “Hãy chấm dứt việc sao chép những mô hình kinh tế không thích hợp, đừng tự hủy hoại mình bởi việc sao chép mô hình các nước phương Tây
Tuy vậy quá trình này cũng có những nét chung:
Vấn đề khu vực kinh tế quốc doanh. Nhìn chung ngày càng khó duy trì vì mức độ sử dụng (phí tổn) của nó ở đa số các nước XHCN lớn hơn nhiều mức cống hiến cho xã hội. Đầu tư (nhân tài vật lực) đổ vào đấy quá nhiều nhưng không cho ra hiệu quả. Ngành quốc doanh trở thành biểu hiện cho hoạt động kinh tế kém cởi của Nhà nước. Sự thua lỗ của khu vực này một mặt gây sức ép tài chính nghiêm trọng, mặt khác tạo ra áp lực lạm phát, hạn chế sự năng động của Chính phủ. Vì vậy phải đóng cửa, giảm số lượng và cải tổ chúng.
Sản xuất được quyết định bởi quan hệ cung – cầu thì hiệu quả mới được nấng lên, khi kế hoạch quyết định theo tiêu chuẩn chính trị thi sự méo mó của toàn bộ nền kinh tế sẽ hết sức nghiêm trọng và điều chỉnh sẽ rất đau đớn.
Liệu pháp sốc không phải là giải pháp tất yếu cho quá trình chuyển đổi cơ chế, Mức độ cải tổ phải căn cứ vào môi trường kinh tế trong nước, có tính đến quan hệ kinh tế đối ngoại. Ví dụ cụ thể nhất: Ba lan ứng lụng phương án cường độ mạnh vì kinh tế quá tiêu điều, nợ chồng chất, thâm hụt ngân sách rất lớn, khả năng hỗ trơ từ bên ngoài lớn. Trong khi đo, tuy có sự ngưng trê, nhưng suy thoái kinh tế không nghiêm trọng, nợ nước ngoài ít nền Tiệp khắc không cần liệu pháp sốc.
Ảnh hưởng của cải tổ trước đây đối với cải tổ hiện nay. Từ 1968 Hungari đã cải tổ vi vậy khu vực tư nhân của họ hiện nay sôi động, ít tranh luận về cải cách. Hungari chuyển đổi cơ chế từ từ, thận trọng, là mô hình kinh tế “hài hòa” nhất của Trung và Đồng âu, duy trì được mức sống tương đối cao.
Vấn đề cân bằng giữa tốc độ và phân giải tác động do cải tổ gây ra đối với xã hội. Thủ tiêu nhanh sự méo mó kinh tế là đúng, song không nền nhanh tới mức mà mọi người không chịu đựng nổi. Đến giữa năm 92 thực tế Ba lan cho thấy “thời gian cần thiết để chuyển đổi toàn diện cơ chế kinh tế sẽ có thể dài hơn nhiều so với dự kiến”. Trong khi đó các nước cải tổ từ từ, tuần tự lại thu được kết quả khả quan, họ trải đều sự tác động của cải tổ theo thời gian (Điển hình là Mê hy cô, Trung quốc)
Tóm lại, tốc độ cải cách phải phù hợp với thực tế mỗi nước.

 






 
 
 
 
 
 
 
 
