1/ Tạo ra các sản phẩm hoặc dịch vụ mà chúng được dùng trên cơ sở tập thể, phi thị trường (dịch vụ duy trì vệ sinh dịch tễ thành phố, giáo dục trung và tiểu học, môi trường sinh thái).
2/ Các hoạt động kinh tế gắn liên vói “hiệu qủa bên ngoài” tức là không mang tính thị trường (nghiên cứu khoa học cơ bản, đào tạo nghề nghiệp).
3/ Các ngành cần vốn đầu tư cho nghiên cứu, vốn cơ bản rất lớn và được xem là hết sức nguy hiểm cho tư nhân (năng lượng nguyên tử, công nghiệp vũ trụ, ô tô, điện tử…).
4/ Các lĩnh vực mà bản thân công nghệ dễ dàng dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và nảy sinh độc quýên tự nhiên (cung ứng điện, nước, khí đốt, giao thông đường sắt…)
5/ Các khu vực mà người mua cơ bản hoặc duy nhất là Nhà nước (công nghiệp quân sự).
6/ Các ngành có địa vị đặc biệt, có thể ảnh hưởng đến chính sách đối nội và đối ngoại.
7/ Các ngành mà tư nhân không quan tâm, nhưng sự tồn tại, phát triển của chúng quyết định đến điều kiện chung cho sản xuất xã hội (kinh tế hạ tầng cơ sở, giao thông, bưu điên, năng lượng). Nhà nước còn đầu tư hỗ trợ cho một số ngành mũi nhọn nhằm đảm bảo sức khỏe cho nền kinh tế, đẩy nhanh tiến bộ khoa học trên cơ sở đó cũng cố uy tín kinh tế – chính trị – ngoại giao trên thế giới.
8/Thực hiện chính sách phát triển kinh tế khu vực.
2/ Các hoạt động kinh tế gắn liên vói “hiệu qủa bên ngoài” tức là không mang tính thị trường (nghiên cứu khoa học cơ bản, đào tạo nghề nghiệp).
3/ Các ngành cần vốn đầu tư cho nghiên cứu, vốn cơ bản rất lớn và được xem là hết sức nguy hiểm cho tư nhân (năng lượng nguyên tử, công nghiệp vũ trụ, ô tô, điện tử…).
4/ Các lĩnh vực mà bản thân công nghệ dễ dàng dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh và nảy sinh độc quýên tự nhiên (cung ứng điện, nước, khí đốt, giao thông đường sắt…)
5/ Các khu vực mà người mua cơ bản hoặc duy nhất là Nhà nước (công nghiệp quân sự).
6/ Các ngành có địa vị đặc biệt, có thể ảnh hưởng đến chính sách đối nội và đối ngoại.
7/ Các ngành mà tư nhân không quan tâm, nhưng sự tồn tại, phát triển của chúng quyết định đến điều kiện chung cho sản xuất xã hội (kinh tế hạ tầng cơ sở, giao thông, bưu điên, năng lượng). Nhà nước còn đầu tư hỗ trợ cho một số ngành mũi nhọn nhằm đảm bảo sức khỏe cho nền kinh tế, đẩy nhanh tiến bộ khoa học trên cơ sở đó cũng cố uy tín kinh tế – chính trị – ngoại giao trên thế giới.
8/Thực hiện chính sách phát triển kinh tế khu vực.
Tóm lại, những khu vực tư nhân không quan tâm hoặc làm không hiệu qủa dưới góc độ kinh tệế – xã hội, những ngành phục vụ cho an ninh quốc phòng, củng cố địa vị quốc gia và đảm bảo cho chiến lược phát triển lâu dài của một dân tộc – thì khu vực kinh tế Nhà nước phải đảm nhiệm.
Đánh giá vai trò của KVKTNN: Theo cách tính của Trung tâm nghiên cứu dự báo Pháp, thì việc đánh giá được căn cứ vào 4 khu vực mà Nhà nước thường can thiệp: năng lượng, giao thông, bưu điện, công nghiệp chế tạo để lập chỉ số ảnh hưởng của KVKTNN trong từng quốc gia, đó là thương số của số lượng bình quân gia quyền số lượng lao động và khối lượng hàng bán. Năm 80 (trước khi tư nhân hóa) chỉ số này ở các nước như sau: Anh: 84, Ý: 83, Pháp: 80, Thụy sĩ: 72, Hà lan: 66, Thụy điển: 65, Đức: 59, Mỹ: 15, Nhật: 30.
Theo số liệu tháng 10/1990 của Trung tâm kinh doanh Nhà nước châu Âu: số lao động ô xí nghiệp Nhà nưóe, xí nghiệp hợp doanh EEC là 737.000 (10,6% tổng số lao động không kể nông nghiệp), chiếm 17,3% tổng số vốn dầu tư cơ bản và tạo ra 12% thu nhập quốc dân EEC. Để đánh giá vai trò KVKTNN, Trung tâm này dùng số lượng trung bình của 3 chỉ tỉêu trên, chĩ số này của KVKTNN EEC năm 82 là 16,6%, năm 85 là 15,3% và hiện nay là 13,3%.
Đọc thêm tại:

 






 
 
 
 
 
 
 
 
