Nếu cụ thể hóa hơn một bước, có thể phân kinh tế thị trường thành 3 dạng (nói đúng hơn là 3 nấc thang).
Để đánh giá hiệu quả của một mô hình kính tế phải đứng trên hai góc độ:
Để đánh giá hiệu quả của một mô hình kính tế phải đứng trên hai góc độ:
        Góc đô hiệu quả xã hội, nhưng phải ưu tiền hiệu quả kinh tế hơn, bởi lẽ nó là cơ sở vật chất cho giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong kinh tế thị trường, mô hình dân chủ – xã hội Tây âu là mò hình có khả năng thực hiện các nguyên tắc công bằng xã hội và đảm bảo mức sống cao cho quần chúng lao động hơn là mô hình kinh tế tự do cổ điển (mà Mỹ là nước gần gũi nhất). Mò hình Tây âu có ưu thế trong giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Dưới góc đô hiệu quả kinh tế (năng suất và hiệu suất) thì mô hình Mỹ có ưu thế nhất.
Vấn đề đặt ra là chọn được điểm chuẩn giữa ưu tiền kinh tế và xã hội. Sự sụp đổ của Thụy điển buộc người ta phải xem xét lại mô hình Tây âu và điều chỉnh ưu tiền xã hội. Nhật bản là mô hình giữa, nếu so với Tây âu nó có ưu thế hiệu quả kinh tế, nếu so với Mỹ nó giải quyết vấn đề xã hội tốt hơn.
Theo các chuyền gia kinh tế Nhật thì mô hình Nhật bản (trong đó có sự kết hợp điều tiết Nhà nước, kế hoạch định hướng với cơ chế thị trường) có khả năng kết hợp hài hòa hơn trong giải quyết tương quan hiệu quả kinh tế và ưu tiền xã hội. Để minh họa cho giải quyết vấn đề công bằng xã hội, các tác giả Nhật dùng chỉ số.
Trong kinh tế thị trường, mô hình dân chủ – xã hội Tây âu là mò hình có khả năng thực hiện các nguyên tắc công bằng xã hội và đảm bảo mức sống cao cho quần chúng lao động hơn là mô hình kinh tế tự do cổ điển (mà Mỹ là nước gần gũi nhất). Mò hình Tây âu có ưu thế trong giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Dưới góc đô hiệu quả kinh tế (năng suất và hiệu suất) thì mô hình Mỹ có ưu thế nhất.
Vấn đề đặt ra là chọn được điểm chuẩn giữa ưu tiền kinh tế và xã hội. Sự sụp đổ của Thụy điển buộc người ta phải xem xét lại mô hình Tây âu và điều chỉnh ưu tiền xã hội. Nhật bản là mô hình giữa, nếu so với Tây âu nó có ưu thế hiệu quả kinh tế, nếu so với Mỹ nó giải quyết vấn đề xã hội tốt hơn.
Theo các chuyền gia kinh tế Nhật thì mô hình Nhật bản (trong đó có sự kết hợp điều tiết Nhà nước, kế hoạch định hướng với cơ chế thị trường) có khả năng kết hợp hài hòa hơn trong giải quyết tương quan hiệu quả kinh tế và ưu tiền xã hội. Để minh họa cho giải quyết vấn đề công bằng xã hội, các tác giả Nhật dùng chỉ số.
Vấn đề lựa chọn mô hình như đã nêu trên phải xuất phát từ thực tế mỗi nước, sự lựa chọn chế độ chính trị, hơn nữa chúng ta khồng thể nhảy cóc đến các mô hình hiệu quả. Tất cả là một quá trình tiến hóa, đào thải và chọn lọc phát triển.
Điều 15, chương 2, Hiến pháp 1992 Việt nam quy định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN… .
Điều 16 “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là dân giàu, nước mạnh… phát huy mọi tỉêm năng của các thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức…”
Như vậy, mô hình kinh tế Việt nam lựa chọn rỗ ràng là “mô hình kinh tế hỗn hợp” có điều tiết Nhà nước theo định hướng XHCN. ơ đây dàn hiểu vai trò chủ đạo của sỗ hữu toàn dân (khu vực kinh tế Nhà nước) – là tạo ra các tiền đè chung, quan trọng cho sự phát triển hiệu quả của toàn bộ hèn kinh tế.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh
tế thị trường, nền
kinh tế việt nam

 






 
 
 
 
 
 
 
 
