Nền kinh tế thị trường nước nào cũng vận hành trong những giới hạn do chế độ sở hữu và chế độ chính trị tạo ra. Đặc trưng này phản ảnh những lợi ích cơ bản, động lực chủ yếu thức đẩy và định hướng vê mặt xã hội – chính trị cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Khi quan sát quá trình kinh tế dưới góc độ lịch sử, thì đặc trưng này thì chỉ rõ tính giai đoạn mà quá trình phát triển kinh tế-xã hội trải qua.
Cho đến bây giờ, chúng ta mới thấy có một liên kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Còn nên kinh tế thị trường không tư bản chủ nghĩa chưa thấy xuất hiện hoặc còn manh nha chăng. Vì vậy, việc phàn tích đặc trưng này phải gắn liền với thực tiễn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Điều dễ thấy là, trong nền kinh tế các nước tư bản, trình độ xã hội hóa cao thấp khác nhau, đặc trưng dân tộc của kinh tế có khác nhau. Nhưng vê bản chất, đều giống nhau ở chế độ sở hữu chủ đạo và chế độ chính trị.
Khi quan sát quá trình kinh tế dưới góc độ lịch sử, thì đặc trưng này thì chỉ rõ tính giai đoạn mà quá trình phát triển kinh tế-xã hội trải qua.
Cho đến bây giờ, chúng ta mới thấy có một liên kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa. Còn nên kinh tế thị trường không tư bản chủ nghĩa chưa thấy xuất hiện hoặc còn manh nha chăng. Vì vậy, việc phàn tích đặc trưng này phải gắn liền với thực tiễn kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Điều dễ thấy là, trong nền kinh tế các nước tư bản, trình độ xã hội hóa cao thấp khác nhau, đặc trưng dân tộc của kinh tế có khác nhau. Nhưng vê bản chất, đều giống nhau ở chế độ sở hữu chủ đạo và chế độ chính trị.
Sự phát triển biện chứng của nên kinh tế và xã hội tư bản từ đầu cho đến ngày nay nằm trong mối quan hệ tương tác giữa xu hướng xã hội hóa với chế độ sở hữu và chế độ chính trị. Mác và Angghen đã quan sát quá trình kinh tế – xã hội tư bản theo phương pháp ấy, nên không những đánh giá đúng vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản mà còn vạch rõ những hạn chế của nở và dự báo rằng:
“Chế độ sở hữu tư sản là biểu hiện cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và. chiếm hữu dựa trên đối kháng giai cấp, trên sự bóc lột của những người này đối với người khác” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản) .
Dự báo ấy dựa trên sự phân tích mối quan hê tương tác nói trên. Rằng xã hội hóa lao động và sản xuất sẽ đạt đến trình độ không phù hợp với “cái vở tư bản chủ nghĩa” của chúng nữa. Biện chứng ở đây là “liên sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên… sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa” (Mác Angghen, tuyển tập, tr.594).
Đọc thêm tại:

 






 
 
 
 
 
 
 
 
