Tính kế hoạch trong kinh tế thị trường

       Hệ thống cống cụ vĩ mô: là một chính thể hoàn chỉnh, nó luôn vận động và có sự thống nhất nội tại. Khi thiết lập hê thống cần lưu ý:
+ Chọn cho được công cụ then chốt, nó có hai chức năng: chi phối công cụ khác và giữ vai trò định vị cho toàn bộ hê thống (chính sách tiền tê – tài chính – tín dụng). Thực tế các nước XHCN, kinh tế thị trường cho thấy thiếu cơ chế tài chính – tiền tệ hoàn thiện thì dứt khoát không thể tạo ra liên kinh tế hiệu quả, có cơ cấu hợp lý, phát triển nhịp nhàng. Ngoài chức năng ổn định tiền tệ, phân bổ vốn, chính sách tiền tệ – tín dụng hiệu qủa phải giải quyết một cách hợp lý mâu thuẫn sau: các tổ chức xuất khẩu độc quýên đấu tranh nhằm giảm tỷ giá tỉên tệ, tư bản cho vay quan tâm đến Ổn định sức mua. Các doanh nghiệp sản xuất ủng hộ chính sách tiền tệ (lãi rất thấp) cho phép mở rộng sản xuất, công đoàn đấu tranh vì chính sách tiền tệ đảm bảo công án việc làm. Nhà nước cần chính sách tiền tệ hỗ trợ thủ tiêu thâm hụt ngân sách. Toàn bộ các mâu thuẫn trên thể hiện trong chính sách tiền tệ của NHTW.
+ Đảm bảo tính thống nhất nội tại của hệ thống, tính đồng hướng (cộng hưởng với nhau) tránh sự đan chéo loại trừ lẫn nhau.
Hiện nay hệ thống công cụ điều tiết vĩ mô là cực kỳ phong phú: Hành chính (hệ thống luật lệ, quy chế hành chính), kinh tế (các chính sách và đòn bẩy kinh tế); Trực tiếp và gián tiếp.
         Tính kế hoạch trong kinh tế thị trường:
         Vấn đề đảm bảo hiệu qủa (kinh tế – xã hội) đòi hỏi nên kinh tế phải phát triển có kế hoạch, nhưng các vấn đề xã hội chỉ có thể giải quyết từng bước trên cơ sở nhất quán nâng cao hiệu qủa kinh tế.

Tính kế hoạch trong kinh tế thị trường

        Về mặt lâu dài kinh tế thị trường sẽ không thể tồn tại, phát triển nếu khống giải quyết thỏa đáng vấn đề xã hội, con người. Muốn vậy kinh tế phải được định hướng và phát triển có kế hoạch (kế hoạch định hướng). Mặt khác kinh tế thị trường không loại trừ tính phát triển có kế hoạch. Vấn đề là ở sự kết hợp hữu cơ, đan chéo lẫn nhau giữa điều tiết vĩ mô Nhà nước và cơ chế thị trường. Kết qủa cuối cùng sự kết hợp hai cơ chế, là tạo ra nền kinh tế hiệu qủa có cơ cấu hợp lý và tăng trưỏng nhịp nhàng. Tính kế hoạch trong kinh tế thị trường thể hiện ở chiến lược, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ ở từng nước trong từng giai đoạn. Sự minh họa có sức thuyết phục nhất ở đây là Nhật bản và 10 kế hoạch phát triển của họ, và Nam Triều Tiên. Công cụ chủ yếu thực hiện và đảm bảo tính phát triển có kế hoạch là chính sách tĩèn tê – tín dụng và hệ thống công cụ tài chính. Nhưng khác với các nước XHCN, Nhật bản lập nội dung kế hoạch, dự báo Nhà nước bởi chính sách lải suất, tiền tệ, tài chính hợp lý chứ không phải là sự đảm bảo tĩên chi phí cho một kế hoạch đã được xác định trước.