Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được giữ ổn định và có thể dự báo được:
Giữ ở mức cân bằng cán cấn thanh toán, chỉ cồ thể thực hiên ở những nước phát triển.
Với những nước đang và chậm phát triển, do phải mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các nguồn tín dụng phát triển, mục tiêu này đặt ra phù hợp là thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế cân được duy trì ở mức tối thiểu. Như vậy, cán cân công nợ trong cán cân thanh toán vẫn tồn tại khoản nợ nước ngoài ở mức độ cần thiết, hợp lý với với cầu phát triển kinh tế trong nước, đương nhiên phải có những đối sách, biện pháp thích hợp để trả nợ nước ngoài.
Đối với cán cân thương mại, mục tiêu của kinh tế vĩ mô liên quan đến quan hệ kink tế đối ngoại, đòi hỏi trước hết phải thăng băng để tiến tới có xuất siêu, để giữ được lợi thế trong quan hệ kinh tế ở thị trường thế giới và hỗ trợ thực hiên các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Để cân bằng cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái dần phải ổn định và có thể dự báo được.
Giữ ở mức cân bằng cán cấn thanh toán, chỉ cồ thể thực hiên ở những nước phát triển.
Với những nước đang và chậm phát triển, do phải mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các nguồn tín dụng phát triển, mục tiêu này đặt ra phù hợp là thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế cân được duy trì ở mức tối thiểu. Như vậy, cán cân công nợ trong cán cân thanh toán vẫn tồn tại khoản nợ nước ngoài ở mức độ cần thiết, hợp lý với với cầu phát triển kinh tế trong nước, đương nhiên phải có những đối sách, biện pháp thích hợp để trả nợ nước ngoài.
Đối với cán cân thương mại, mục tiêu của kinh tế vĩ mô liên quan đến quan hệ kink tế đối ngoại, đòi hỏi trước hết phải thăng băng để tiến tới có xuất siêu, để giữ được lợi thế trong quan hệ kinh tế ở thị trường thế giới và hỗ trợ thực hiên các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Để cân bằng cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái dần phải ổn định và có thể dự báo được.
Chế độ nhiều tỷ giá trong đó tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) được cố định cho nhiều năm là đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và kìm hãm xuất khẩu, kích thích hoạt đòng đâu cơ hối đoái, thúc đẩy sự phá giá liên tục của đồng tiền Việt nam và hiệu quả chung là đẩy nhanh lạm phát ở mức độ cao.
Trong đổi mới cơ chế kinh tế, chúng ta thực hiên chế độ tỷ giả linh hoạt có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước. Cơ chế định tỷ giá này về cơ bản do quan hệ cung cầu ngoại tế trên thị trường quyết định đi đôi với sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu bằng biện pháp kinh tế, nhầm thực hiên liên hoàn các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Không để cho đống tiền Việt nam luôn bị phá giá, mất giá quá lớn, tuy có kích thích xuất khẩu, có thể tạo thêm chỗ làm việc trong nước nhưng nguy cơ bùng nổ tái lạm phát cao; Mặt khác, cũng không để đồng tiền Việt nam lên giá quá cao, tuy lạm phát có thể giảm xuống nhưng cán cân thương mại sẽ xấu đi, xuất khẩu giảm sút, nhập khẩu tăng lên, thúc đẩy tăng chi phí sản xuất trong nước, hệ quả là thu hẹp công ăn việc làm và chứa đựng nguy cơ suy thoái kinh tế.
Qua đó cho thấy tỷ giá hối đoái vừa là mục tiêu, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô rất nhạy bén. Khó có thể thực hiện tất cả các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong cùng một thời gian ở mức lý tưởng như có tốc độ tăng trưởng kinh tế với mức toàn dụng lao động, tỷ lệ lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán ở mức thấp, tỷ giá hối đoái ổn định.
Từ khóa tìm kiếm nhiều: nền
kinh tế thị trường, chính
sách kinh tế vĩ mô

 






 
 
 
 
 
 
 
 
