Chính phủ thực hiện sức mua của đồng tiền trong nước

        Mặt khác thông qua Ngân hàng Nhà nước để chính phủ thực hiện sức mua của đồng tiền trong nước (nội tệ) vì ở điều kiện của nền kinh tế thị trường, sức mua của đồng tiền chịu sự chi phối và tác động của nhiều yếu tố trong đó có ảnh hưởng của quan hệ cung cầu hàng-hóa. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa bị suy giảm và ngược lại dẫn đến giá trị đồngtiền không ổn định. Sự mất ổn định của đồng tiền đều gây những bất lợi nhất định cho người sản xuất và cả người tiêu dùng. Vì lẽ đó, Nhà nước phải có biện pháp giữ ổn định đồng tiền đặc biệt trước những tác động của giá ngoại tế và vàng, ở nhiều quốc gia Ngân hàng Nhà nước luôn luôn có các biện pháp can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tế để giữ ổn định sức mua của đồng tiền nội tế. Ví dụ sử dụng vàng và ngoại tệ dự trữ để can thiệp vào thị trường ngoại hối và thị trường vàng bạc nhằm bình ổn giá cả đã được áp dung ở các quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao.

sức mua của đồng tiền trong nước

       Trong việc điều tiết sản xuất kinh doanh, thiết lập cơ cấu liên kinh tế, chính phủ cũng thường thông qua Ngân hàng Nhà nước để phân phối tài nguyên quốc gia cho các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm tạo ra sự cân đối. Bời vi hệ thống Ngân hàng có chức lâng cung ứng các nguồn tín dụng cho sự phát triển của các ngành nghệ. Chính phủ cũng thực hiện điều tiết sản xuất ở tầm vĩ mô bằng vai trò của hệ thống Ngân hàng và công cụtiềntệ như có thể tạo ra các điều kiện tín dụng thuận lợi cho cácngành nghề cần khuyến khích phát triển và hạn chế tín dụng đối với các ngành nghềkhông cần phát triển. Ví dụ tín dụng khuyến khích xuất khẩu hay tín dụng cho nông nghiệp ở hâu hết các quốc gia đều tạo thuận tiện và ưu đái về lãi suất là một minh chứng điển hình.

       Mặc dù Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng của các Ngân hàng không trực tiếp cưng cấp tín dụng nhưng nó đề ra các chính sách, quy định về tín dụng và khung lãi suất để các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng áp dụng cho các lĩnh vực và ngành nghề. Hơn thế nữa, chính phủ cũng sẽ thông qua vai trò và chức năng của Ngân hàng Nhà nước để kiểm soát khối lượng tín dụng của nền kinh tế cũng như hoạt động của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Ngân hàng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam

Cách sử dụng công cụ tiền tệ ở Việt Nam

     Thực hiện chương trình cải cách kinh tế ở Việt nam, Nhà nước đã thực thi đổi mới chính sách tiền tế trong đó cải cách lãi suất tín dụng theo hướng lãi suất được sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tế, chuyển từ lãi xuất bao cấp (lãi suất âm) từng bước sang lãi suất thị trường (lãi suất dương) đã có tác dụng giảm tổng cầu trên thị trường, góp phần ổn định giá cả, nâng cao sức mua của đồng tiền.

     Với cơ chế tín dụng “vay để cho vay” và lãi suất được đổi mới, nguồn vốn tín dụng Ngân hàng được huy động bằng nhiều hình thức như: tiền tiết kiêm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích, kỳ phiếu Ngân hàng được đảm bảo giá trị theo vàng nhằm thu hút tiền, vàng, ngoại tệ cho các dự án dầu tư dài hạn.

    Nhà nước thông qua vai trò cua hệ thống Ngân hàng đá bước đâu hình thành thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tín dụng Ngân hàng đã mở rộng ra các thành phần kinh tế, phát triển các hình thức cho vay tới hộ nông dân và người sản xuất thủ công,dịch vụ. Nhà nước thống qua chính sách tiền tệ-tín dụng đã góp phần sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh như xóa dần tín dụng bao cấp.

 công cụ tiền tệ ở Việt Nam

     Để khuyến khích xuất khẩu, chính phủ đã thay đổi và điều chỉnh tỷ giá hối đoái góp phần tạo nguồn ngoại tệ bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán quốc té. Mặt khác, chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới và hoàn thiện, Ngân hàng Nhà nước đã mở hải trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà nội và thành phố Hồ chí Minh nhằm kiểm soát việc cung ứng ngoại tệ theo cơ chế thị trường. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực áp dụng các giải pháp để can thiệp vào thị trường vàng và dola trong nước góp phần hạ được những cơn sốt vàng và dola, tạo nền xu hướng ổn định thị trương ngoại hối, giá trị đồng tiền Việt nam và giá cả hàng hóa.

    Bên cạnh đổi mới hệ thống Ngân hàng chuyển từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp: Ngân hàngNhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, chính phủ cũng đã áp dụng các giải pháp vay trong và ngoài nước qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Các phương tiện huy động tiền tệ đã được phát triển như tín phiếu kho bạc với các lãi xuất và thời hạn khác nhau để tạo nguồn vốn đầu tư cho các dự án ngành, nghề thực hiện các mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế-xã hội của Nhà nước.



Nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà Nước

       Như đã đề cập ở trên, chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào khối lượng tiền tệ và các hoạt động của nó để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng mệnh lệnh mà phải thông qua vai trò của NSNN hay Ngân hàng trung ương. Trong đó điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo yêu càu ổn định và tăng trương kinh tế được chính phủ hết sức quan tâm.

      Đó là vì trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cân đối tiền-hàng là quan hệ kinh tế mang tính quy luật, khi nền kinh tế tăng trưởng khối lượng và giá trị hàng hóa tăng lên thì khối lượng tiền tệ phải tăng lên tương ứng đảm bảo lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Ngân hàng Nhà nước vốnchức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và là Ngân hàng của các Ngân hàng có nhiệm vụ điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ vai trò quyết định đến toàn bộ sự vận động và chu chuyển của các hoạt động tiền tệ.

Nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà Nước

       Nhiệm vụ này của Ngân hàng Nhà nước thường được thể hiện thông qua các nghiệp vụ:

+ Quy định tỷ lệ dự trữ pháp định của các Ngân hàng thương mại

+ Cho các Ngân hàng thương mại vay

+ Thực hiên chiết khấu và tái chiết khấu cho các Ngân hàng thương mại.

      Trong kinh tế thị trường, thông qua chính sách tiền tệ mà Nhà nước có thể tăng cung tiền tệ vào lưu thông hoặc thu hẹp tương ứng với các mục tiêu và sự biến động của nền kinh tế. Khi tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu đầu tư tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp để tăng cung tiền tệ và ngược lại.

       Tuy thế không phải bất cứ lúc nào sự vận động của các quan hệ kinh tế và quan hệ tiền-hàng đều diễn ra như vậy, chính phủ trong một số trường hợp phải chủ động thông qua Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lại quan hệ này chẳng hạn khi tốc độ tăng trưởng quá cao “nền kinh tế phát triển nóng” để tránh những khả năng tạo ra khủng hoảng thừa và nguy cơ lạm phát, Ngân hàng Nhà nước phải áp dụng các biện pháp để thu hẹp và làm giảm khối cung tiền tệ để làm giảm nhịp độ phát triển quá nóng của nền kinh tế.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế thị trường, nền kinh tế việt nam