Cơ chế quản lý NSNN trong thời gian qua

       Cơ chế quản lý NSNN có thể được hiểu là tổng hợp các hình thức và phương pháp điều hành Ngân sách trong toàn bộ hệ thống NSNN. Cơ chế này bao gồm các bộ phện chủ yếu là: thu, chi, phân cấp, lập quyết định phân bổ, chấp hành quyết toán và tổ chức bộ máy quản lý NSNN. Quá trình vận hành của cơ chế quản lý NSNN rất phức tạp, xuất hiện và tòn tại nhiều mối quan hệ, những mối quan hệ này phụ thuộc chặt chẽ vào nội dung và tính chất của cơ chế, cơ chế thay đổi tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của những mối quan hệ trong cơ chế. Vì vậy, việc nghiên cứu sử lý các mối quan hệ này phải được xem xét, đánh giá kỹ để có biện pháp khắc phục và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu cơ chế quản lý NSNN phải phù hợp với liên kinh tế hướng theo thị trường.

Cơ chế quản lý
        Thực trạng cơ chế thu Ngân sách:
       Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì cơ chế về thu như trước đây là không còn phù hợp và bộc lộ những nhược điểm lớn là:
– Chính sách chế độ thu có nhiều, nhưng lẫn sơ hỗ, chồng chéo, chắp vá và chưa bao quát hết các nguồn thu trong điều kiện liền kinh tế thị trường, chưa tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển.
– Hệ thống chính sách thu ban hành không đồng nhất, chủ yếu ban hành bằng các văn bản pháp quy dưới luật, chưa đứng với hiến pháp nền tính pháp lý không cao, hiệu lực thi hành bị hạn chế.

Cụ thể: các sắc thuế chưa bám sát được những đặc thù trong kinh doanh chưa phản ánh hết và chưa thể lường hết được những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, một tòn tại lớn nhất về chính sách thu hiện nay là: Chính phủ và các cơ quan chức năng chưa tập trung hệ thống hóa được các chế độ thu khác có tính chất thuế như các loại thuế và lệ phí…vẫn còn tình trạng các địa phương các nghành tự đặt ra các chế độ thu rất tùy tiện. Về thuế suất của một số luật thuế đối với một số nghành nghệ, mặt hàng kinh doanh cũng còn bất hợp lý, chưa phù hợp với thực tế hoạt động của các doanh nghiệp, và các thành phần kinh tế.
         Trong qua trình thực thi các sắc thuế mới chưa bảo đảm tính công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bôi kinh tế ngoài quốc doanh không có sổ sách chứng từ công khai theo luật định, thệm chí cố tình tìm cách lợi dụng những sơ hở của cơ chế chính sách để tránh chốn thuế. Trong khi đó kinh tế quốc doanh có sổ sách kế toán đây đủ và đóng thuế tương đối đúng luật. Rõ ràng về sức và điều kiên cạnh tranh giữa hai thành phần kinh tế này chưa đồng nhất càng làm cho kinh tế quốc doanh khó vượt qua được khủng hoảng.
          Những tồn tại trên đây nếu không được đổi mới thì chẳng những không phát huy được tính thống nhất và hiệu lực của cơ chế thu mà còn trở ngại đến việc phát triển của liên kinh tế-xã hội.