Chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiên và trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu còn lẫn lộn trong các sắc thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng.  Do mỗi sắc thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cùng một lúc nền cơ cấu thuế suất thưởng phức tạp, có nhiều thụế suất khác nhau. Ví dụ thuế doanh thu có 16 thuế suất, thuế xuất khẩu có 11 thuế suất, thuế nhệp khẩu có 26 thuế suất…
Thậm chí trong cùng một ngành nghệ cũng phân biệt thuế suất khá chềnh lệch như thuế doanh thu của luyện kim đen 2%, luyện kim màu 4%, kinh doanh tiêu thụ hàng nội địa 1%, tiêu thụ hàng nhập khẩu 8%.
Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xác định rô những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nền đả gây khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, đã gây tùy tiền và tiêu cực khi thực hiên. Biểu thuế suất khẩu, thuế nhệp khẩu hiên có tới 50.000 mặt hàng khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại, chương, nhóm nào được, nhưng có mặt hàng lại có thể xếp vào nhiều loại, chương, nhóm khác nhau. Việc phân biệt quá chi li về thuế vừa gây chệm trễ, khó khăn cho việc tra cứu để tính và nộp thuế, vừa- phải chi phí tốn kém cho việc quản lý thuế mà cuối cùng vẫn không đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Mặt khác phạm vi miễn, giảm thuế còn quá rộng và chưa theo một nguyên tắc nhất quán nền đã khiến cho nguồn thu về thuế bị ăn mòn, đồng thời tạo kẽ hở trốn, tránh thuế, tỉ lệ thuế đặt ra do đó không sao phát huy được trọn vẹn.
Thậm chí trong cùng một ngành nghệ cũng phân biệt thuế suất khá chềnh lệch như thuế doanh thu của luyện kim đen 2%, luyện kim màu 4%, kinh doanh tiêu thụ hàng nội địa 1%, tiêu thụ hàng nhập khẩu 8%.
Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xác định rô những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nền đả gây khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, đã gây tùy tiền và tiêu cực khi thực hiên. Biểu thuế suất khẩu, thuế nhệp khẩu hiên có tới 50.000 mặt hàng khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại, chương, nhóm nào được, nhưng có mặt hàng lại có thể xếp vào nhiều loại, chương, nhóm khác nhau. Việc phân biệt quá chi li về thuế vừa gây chệm trễ, khó khăn cho việc tra cứu để tính và nộp thuế, vừa- phải chi phí tốn kém cho việc quản lý thuế mà cuối cùng vẫn không đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Mặt khác phạm vi miễn, giảm thuế còn quá rộng và chưa theo một nguyên tắc nhất quán nền đã khiến cho nguồn thu về thuế bị ăn mòn, đồng thời tạo kẽ hở trốn, tránh thuế, tỉ lệ thuế đặt ra do đó không sao phát huy được trọn vẹn.
Việc ban hành luật pháp về thuế chưa đồng bộ, thời điểm ban hành giữa luật, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết chính sách thuế còn cách xa nhau nên đã làm cho người thi hành phải chờ đợi khá lâu, không những làm cho việc thu thuế bị chậm chế, mà còn làm cho tác dụng của pháp luật bị Hẹn chế. Hơn nữa điều này còn tạo ra tâm lý coi trọng thông tư hơn luật, pháp lệnh, coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp. Quan niệm này hoàn toàn xa lạ với những tiêu chuẩn Nhà nước pháp quyền trong hện kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng .
Sự thống nhất của pháp luật không được thực hiên nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng ngành chủ quản tự hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành nộp thuế khác với luật quy định làm rối trong việc trong việc thực hiện chính sách thuế ở cơ sở. Tình trạng “loạn phí, lệ phí” còn diễn ra phổ biến ở các địa phương, Nhà nước không thể kiểm soát nổi, hầu hết các khoản thu này không được nộp vào NSNN và sử dụng có hiệu quả. Bên ranh đó vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành luật và pháp lệnh còn bị xem nhẹ nền vấn đề dây dưa nợ thuế, thất thu còn xây ra rất đa dạng và phức tạp.
Đọc thêm tại:

 






 
 
 
 
 
 
 
 
