Chính phủ thực hiện sức mua của đồng tiền trong nước

        Mặt khác thông qua Ngân hàng Nhà nước để chính phủ thực hiện sức mua của đồng tiền trong nước (nội tệ) vì ở điều kiện của nền kinh tế thị trường, sức mua của đồng tiền chịu sự chi phối và tác động của nhiều yếu tố trong đó có ảnh hưởng của quan hệ cung cầu hàng-hóa. Khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hóa bị suy giảm và ngược lại dẫn đến giá trị đồngtiền không ổn định. Sự mất ổn định của đồng tiền đều gây những bất lợi nhất định cho người sản xuất và cả người tiêu dùng. Vì lẽ đó, Nhà nước phải có biện pháp giữ ổn định đồng tiền đặc biệt trước những tác động của giá ngoại tế và vàng, ở nhiều quốc gia Ngân hàng Nhà nước luôn luôn có các biện pháp can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tế để giữ ổn định sức mua của đồng tiền nội tế. Ví dụ sử dụng vàng và ngoại tệ dự trữ để can thiệp vào thị trường ngoại hối và thị trường vàng bạc nhằm bình ổn giá cả đã được áp dung ở các quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao.

sức mua của đồng tiền trong nước

       Trong việc điều tiết sản xuất kinh doanh, thiết lập cơ cấu liên kinh tế, chính phủ cũng thường thông qua Ngân hàng Nhà nước để phân phối tài nguyên quốc gia cho các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm tạo ra sự cân đối. Bời vi hệ thống Ngân hàng có chức lâng cung ứng các nguồn tín dụng cho sự phát triển của các ngành nghệ. Chính phủ cũng thực hiện điều tiết sản xuất ở tầm vĩ mô bằng vai trò của hệ thống Ngân hàng và công cụtiềntệ như có thể tạo ra các điều kiện tín dụng thuận lợi cho cácngành nghề cần khuyến khích phát triển và hạn chế tín dụng đối với các ngành nghềkhông cần phát triển. Ví dụ tín dụng khuyến khích xuất khẩu hay tín dụng cho nông nghiệp ở hâu hết các quốc gia đều tạo thuận tiện và ưu đái về lãi suất là một minh chứng điển hình.

       Mặc dù Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng của các Ngân hàng không trực tiếp cưng cấp tín dụng nhưng nó đề ra các chính sách, quy định về tín dụng và khung lãi suất để các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng áp dụng cho các lĩnh vực và ngành nghề. Hơn thế nữa, chính phủ cũng sẽ thông qua vai trò và chức năng của Ngân hàng Nhà nước để kiểm soát khối lượng tín dụng của nền kinh tế cũng như hoạt động của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Ngân hàng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam

Cách sử dụng công cụ tiền tệ ở Việt Nam

     Thực hiện chương trình cải cách kinh tế ở Việt nam, Nhà nước đã thực thi đổi mới chính sách tiền tế trong đó cải cách lãi suất tín dụng theo hướng lãi suất được sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tế, chuyển từ lãi xuất bao cấp (lãi suất âm) từng bước sang lãi suất thị trường (lãi suất dương) đã có tác dụng giảm tổng cầu trên thị trường, góp phần ổn định giá cả, nâng cao sức mua của đồng tiền.

     Với cơ chế tín dụng “vay để cho vay” và lãi suất được đổi mới, nguồn vốn tín dụng Ngân hàng được huy động bằng nhiều hình thức như: tiền tiết kiêm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích, kỳ phiếu Ngân hàng được đảm bảo giá trị theo vàng nhằm thu hút tiền, vàng, ngoại tệ cho các dự án dầu tư dài hạn.

    Nhà nước thông qua vai trò cua hệ thống Ngân hàng đá bước đâu hình thành thị trường tiền tệ ngắn hạn. Tín dụng Ngân hàng đã mở rộng ra các thành phần kinh tế, phát triển các hình thức cho vay tới hộ nông dân và người sản xuất thủ công,dịch vụ. Nhà nước thống qua chính sách tiền tệ-tín dụng đã góp phần sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh như xóa dần tín dụng bao cấp.

 công cụ tiền tệ ở Việt Nam

     Để khuyến khích xuất khẩu, chính phủ đã thay đổi và điều chỉnh tỷ giá hối đoái góp phần tạo nguồn ngoại tệ bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán quốc té. Mặt khác, chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới và hoàn thiện, Ngân hàng Nhà nước đã mở hải trung tâm giao dịch ngoại tệ ở Hà nội và thành phố Hồ chí Minh nhằm kiểm soát việc cung ứng ngoại tệ theo cơ chế thị trường. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực áp dụng các giải pháp để can thiệp vào thị trường vàng và dola trong nước góp phần hạ được những cơn sốt vàng và dola, tạo nền xu hướng ổn định thị trương ngoại hối, giá trị đồng tiền Việt nam và giá cả hàng hóa.

    Bên cạnh đổi mới hệ thống Ngân hàng chuyển từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp: Ngân hàngNhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, chính phủ cũng đã áp dụng các giải pháp vay trong và ngoài nước qua hệ thống kho bạc Nhà nước. Các phương tiện huy động tiền tệ đã được phát triển như tín phiếu kho bạc với các lãi xuất và thời hạn khác nhau để tạo nguồn vốn đầu tư cho các dự án ngành, nghề thực hiện các mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế-xã hội của Nhà nước.



Nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà Nước

       Như đã đề cập ở trên, chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào khối lượng tiền tệ và các hoạt động của nó để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng mệnh lệnh mà phải thông qua vai trò của NSNN hay Ngân hàng trung ương. Trong đó điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo yêu càu ổn định và tăng trương kinh tế được chính phủ hết sức quan tâm.

      Đó là vì trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cân đối tiền-hàng là quan hệ kinh tế mang tính quy luật, khi nền kinh tế tăng trưởng khối lượng và giá trị hàng hóa tăng lên thì khối lượng tiền tệ phải tăng lên tương ứng đảm bảo lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Ngân hàng Nhà nước vốnchức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và là Ngân hàng của các Ngân hàng có nhiệm vụ điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ vai trò quyết định đến toàn bộ sự vận động và chu chuyển của các hoạt động tiền tệ.

Nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà Nước

       Nhiệm vụ này của Ngân hàng Nhà nước thường được thể hiện thông qua các nghiệp vụ:

+ Quy định tỷ lệ dự trữ pháp định của các Ngân hàng thương mại

+ Cho các Ngân hàng thương mại vay

+ Thực hiên chiết khấu và tái chiết khấu cho các Ngân hàng thương mại.

      Trong kinh tế thị trường, thông qua chính sách tiền tệ mà Nhà nước có thể tăng cung tiền tệ vào lưu thông hoặc thu hẹp tương ứng với các mục tiêu và sự biến động của nền kinh tế. Khi tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu đầu tư tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp để tăng cung tiền tệ và ngược lại.

       Tuy thế không phải bất cứ lúc nào sự vận động của các quan hệ kinh tế và quan hệ tiền-hàng đều diễn ra như vậy, chính phủ trong một số trường hợp phải chủ động thông qua Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lại quan hệ này chẳng hạn khi tốc độ tăng trưởng quá cao “nền kinh tế phát triển nóng” để tránh những khả năng tạo ra khủng hoảng thừa và nguy cơ lạm phát, Ngân hàng Nhà nước phải áp dụng các biện pháp để thu hẹp và làm giảm khối cung tiền tệ để làm giảm nhịp độ phát triển quá nóng của nền kinh tế.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế thị trường, nền kinh tế việt nam

Cân nhắc giải pháp giảm thất nghiệp và lạm phát

         Thông thường khi lạm phát gia tăng thì thất nghiệp giảm và khi lạm phát giảm thì thất nghiệp tăng. Do vậy, Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ-tín dụng đặc biệt là sử dụng công cụ lãi xuất sẽ có vai trò to lớn đến việc xử lý các mục tiêu khuyến khích đầu tư tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát và giải quyết công ăn việc làm.

          Trên thế giới ngày nay đã hình thành nhiều trường phái kinh tế khác nhau xoay xung quanh các giải pháp xử lý những mục tiêu có tính chất vĩ mô nền kinh tế mà chính phủ của nhiều quốc gia cân nhắc lựa chọn đó là:

-   Quan điểm thứ nhất có khuynh hướng vừa phải chống lạm phát và đi đôi với giải quyết tình trạng thất nghiệp)

-   Quan điểm thứ hai cho rằng trong nền kinh tế thị trường phải chấp nhện lạm phát và thất nghiệp ở một mức vừa phải tương ứng để tránh nhưng “cơn sốc” của sự gia tăng kinh tế.

-   Quan điểm thứ ba lại cho rằng không thể đồng thời giải quyết được lạm phát rà thất nghiệp, chống lạm phát cao phải chấp nhện thất nghiệp ở mức độ cao.

giải pháp giảm thất nghiệp

        Các quan điểm trên đều đã hình thành nền các giải pháp mà chính phủ của nhiều nước đã thi hành như thực hiên chính sách thắt chặt tiền tế, thắt chặt ngân sách hay áp dụng chính sách thắt chặt ngân sách, lới lỏng tín dụng v.v…

        Chúng tôi cho rằng xét theo từng quan điểm và tùy thuộc vào đặc điểm tình hình kinh tế mỗi nước, chính phủ các nước đó sẽ lựa chọn giải pháp trong chiến lược điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của mình thông qua công cụ tiền tệ hợp lý nhất.

         Đối với nước ta, thực tiễn cho thấy do trước đây chúng ta nhận thức chưa đày đủ vai trò của công cụ tiền tế nền tác dụng của nó chưa được phát huy. Công cuộc chống lạm phát vừa qua đã chứng minh cho chúng ta thấy được việc Nhà nước sử dụng công cụ tiền tệ để chống lạm phát, ổn định kinh tế là rất có hiệu quả. Vì lẽ đó, chúng tôi suy nghĩ rằng chính phủ cần thông qua chính sách tiền tệ và tài chính thắt chặt, sử dụng công cụ lãi suất phù hợp để trước hết chống lạm phát, lấy lại sự ổn định kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng đồng thời với mở rộng đầu tư để tạo thêm công ăn việc làm là giải pháp phù hợp trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế giai đoạn đần của việt nam.


Đọc thêm tại:

Quan hệ cân đối tiền hàng trong nền kinh tế

         Chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào khối lượng tiền tệ và các hoạt động của nó để điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng mệnh lệnh mà phải thông qua vai trò của NSNN hay Ngân hàng trung ương. Trong đó điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo yêu cầu ổn định và tăng trưởng kinh tế được chính phủ hết sức quan tâm.

         Đó là vì trong nền kinh tế thị trường, quan hệ cân đối tiền hàng là quan hệ kinh tế mang tính quy luật, khi nền kinh tế tăng trưởng khối lượng và giá trị hàng hóa tăng lên thì khối lượng tiền tệ phải tăng lên tương ứng đảm bảo lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Ngân hàng Nhà nước với chức năng hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ và là Ngân hàng của các Ngân hàng có nhiệm vụ điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông đảm bảo mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế giữ vai trò quyết định đến toàn bộ sự vận động và chu chuyển của các hoạt động tiền tệ.

Quan hệ cân đối tiền hàng

           Nhiệm vụ này của Ngân hàng Nhà nước thường được thể hiện thông qua các nghiệp vụ:

   + Quy định tỷ lệ dự trữ pháp định của các Ngân hàng thương mại

   + Cho các Ngân hàng thương mại vay

   + Thực hiện chiết khấu và tái chiết khấu cho các Ngân hàng thương mại.

          Trong kinh tế thị trường, thông qua chính sách tiền tế mà Nhà nước có thể tăng cung tiền tệ vào lưu thông hoặc thu hẹp tương ứng với các mục tiêu và sự biến động của nền kinh tế. Khi tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu đầu tư tăng mạnh, Ngân hàng Nhà nước phải có biện pháp để tăng cung tiền tệ và ngược lại.

         Tuy thế không phải bất cứ lúc nào sự vận động của các quan hệ kinh tế và quan hệ tiền-hàng đều diễn ra như vậy, chính phủ trong một số trường hợp phải chủ động thông qua Ngân hàng Nhà nước để điều tiết lại quan hệ này chẳng hạn khi tốc độ tăng trưởng quá cao “liên kinh tế phát triển nóng” để tránh những khả năng tạo ra khủng hoảng thừa và nguy cơ lạm phát, Ngân hàng Nhà nước phải áp dụng các biện pháp để thu hẹp và làm giảm khối cung tiền tệ để làm giảm nhịp độ phát triển quá nóng của nền kinh tế.



Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ –tín dụng

      Thông thường khi lạm phát gia tăng thì thất nghiệp giảm và khi lạm phát giảm thì thất nghiệp tăng. Do vậy, Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thông qua chính sách tiền tệ-tín dụng đặc biệt là sử dụng công cụ lãi xuất sẽ có vai trồ to lớn đến việc xử lý các mục tiêu khuyên khích đầu tư tăng trưởng kinh tế, chống lạm phát và giải quyết công ăn việc làm.

      Trên thế giới ngày nay đã hình thành nhiều trường phái kinh tế khác nhau xoay xung quanh các giải pháp xử lý những mục tiêu có tính chất vĩ mô nền kinh tế mà chính phủ của nhiều quốc gia cân nhắc lựa chọn đó là:

-   Quan điểm thứ nhất có khuynh hướng vừa phải chống lạm phát và đi đôi với giải quyết tình trạng thất nghiệp)

-   Quan điểm thứ hai cho rằng trong nền kinh tế thị trường phải chấp nhận lạm phát và thất nghiệp ở một mức vừa phải tương ứng để tránh nhưng “cơn sốc” của sự gia tăng kinh tế

chính sách tiền tệ –tín dụng

-   Quan điểm thứ ba lại cho rằng không thể đồng thời giải quyết được lạm phát rà thất nghiệp, chống lạm phát cao phải chấp nhện thất nghiệp ở mức độ cao.

      Các quan điểm trên đều đã hình thành nền các giải pháp mà chính phủ của nhiều nước đã thi hành như thực hiên chính sách thắt chặt tiền tế, thắt chặt ngân sách hay áp dụng chính sách thắt chặt ngân sách, lới lỏng tín dụng v.v…

      Chúng tôi cho rằng xét theo từng quan điểm và tùy thuộc vào đặc điểm tình hình kinh tế mỗi nước, chính phủ các nước đó sẽ lựa chọn giải pháp trong chiến lược điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của mình thông qua công cụ tiền tệ hợp lý nhất.

      Đối với nước ta, thực tiễn cho thấy do trước đây chúng ta nhận thức chưa đầy đủ vai trò của công cụ tiền tế nền tác dụng của nó chưa được phát huy. Công cuộc chống lạm phát vừa qua đã chứng minh cho chúng ta thấy được việc Nhà nước sử dụng công cụ tiền tệ để chống lạm phát, ổn định kinh tế là rất có hiệu quả. Vì lẽ đó, chúng tôi suy nghĩ rằng chính phủ cần thông qua chính sách tiền tệ và tài chính thắt chặt, sử dụng công cụ lãi suất phù hợp để trước hết chống lạm phát, lấy lại sự ổn định kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng đồng thời với mở rộng đầu tư để tạo thêm công ăn việc làm là giải pháp phù hợp trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế giai đoạn đầu của việt nam.



Mục tiêu trong chính sách tiền tệ của chính phủ là tạo công ăn việc làm

        Đây cũng là mục tiêu chung của bất kỳ nền kinh tế của các quốc gia nào nhất là các quốc gia chậm phát triển với nguồn nhân lực ngày càng gia tăng nhanh hơn số lượng việc làm dẫn đến tình trạng thất nghiệp và bán thất nghiệp. Chính phủ của lất nhiều các quốc gia đã thi hành các chính sách và nhiều biện pháp trong đó chính sách tiền tế chỉ có thể được sử dụng hướng vào dầu tư phát triển để tăng trưởng và tạo thềm công ăn việc làm. Điều này là một sự lôgic hiển nhiên bởi vì khi nền kinh tế phát triển thì ngành nghề được mở mang, công ăn việc làm được tạo ra nhiều hơn từ đó thất nghiệp giảm đi và ngược lại làm nền kinh tế trì trệ, lạm phát sẽ đi liền với thất nghiệp gia tâng, đồng tiền không ổn định.

       Để thực hiện mục tiêu này trong chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, các chương trình đầu tư tín dụng được hướng vào các dự án công cộng nhầm giải quyết công ăn việc làm, tạo ngành nghệ với các hình thức và biện pháp đâu tư vốn tín dụng ưu dãi. Đồng thời cùng với nguồn vốn NSNN, vốn tín dụng hỗ trợ đầu tư dưới dạng cho vay vào lĩnh vực công cộng sẽ thu hút đượcthêm số lượng lao động đặc biệt là các chương trình tạo việc làm cho người lao động của chính phủ. Hơn nữa, tăng trưởng kinh tế, mở rộng phát triển sản xuất càn đến lao động vì lao động là yếu tố tiềm năng của sản xuất, do vậy nếu như đầu tư vốn tiền tệ tăng lên thì sẽ có điều kiện để gia tăng việc sử dụng thệm nguồn nhân lực.

tạo công ăn việc làm

       Nhưng cũng phải thấy rằng trong nền kinh tế thị trưởng phát _ triển những tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ là động lực cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế và đi liên là sự gia tăng đầu tư tiền vốn vào việc cải tiến kỹ thuật công nghệ sản xuất tiền tiến, kỹ thuật hiên đại. Do đó không tạo thêm được công ăn việc làm trong khu vực sản xuất. Vì lẽ đó, bên cạnh sự phát triển nhanh chóng của khu vực sản xuất, chính phủ của nhiều quốc gia đã thông qua chính sách tiền tệ của mình để hướng đâu tư phát triển lĩnh vực dịch vụ cho xã hội và dịch vụ cho tiêu dùng. Trên thực tế bằng nguồn vốn đâu tư tín dụng nhiều lĩnh vực dịch vụ đã phát triển thu hút vã tạo ra khối lượng công việc đáng kể cho người lao động như dịch vụ du lịch ngày nay đã trở thành ngành công nghiệp du lịch.

        Tuy nhiên, vai trò điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước thông qua chính sách tiền tệ phải giữ được sự cân bằng tương đối giữa hai mục tiêu đó là: lạm phát và thất nghiệp, bởi lẽ lạm phát và thất nghiệp là hai đối kháng không thể gần gũi được nhau nhất là ở trong điều kiên của một nền kinh tế kém phát triển.



Ngân hàng Trương ương “vay để cho vay”

        Để thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô của công cụ tiền tệ, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (hay ngân hàng trung ương). Trong đó, các chính sách tiền tệ đều hướng vào các mục tiêu chủ yếu là tạo ra và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, kiểm soát lạm phát và ổn định tiền tế.

       Tuy nhiên, trong hoàn cảnh và điều kiện kinh tế thị trường ở từng nước, trình độ quản lý và các vấn đề kinh tế- xã hội của mỗi nước mà thứ tự líu tiền của các chính sách tiền tệ được các chính phủ hướng đến sẽ không giống nhau. Chẳng hạn, một quốc gia đang ồ vào tình trạng kinh tế khủng hoảng, siêu lạm phát thì vấn đề kiểm soát lạm phát được chính phủ quan tâm hàng đâu trong việc thực.thi một chính sách tiền tệ phù hợp.

        Song tựu trung lại thì mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là hướng vào tăng trưởng kinh tế. Vì rằng mục tiêu này là mục tiêu bao trùm để giải quyết hàng loạt các mục tiêu khác. Một lần kinh tế không thể tăng trưởng nếu như không có sự thúc đẩy của chính phủ thông qua vai trò của công cụ tiền tệ. Bởi vì, tiền tệ không thể đơn thuần là nhiệm vụ thước đo giá trị của quá trình tái sản xuất giản đơn, nó còn thể hiện trong quá trình tái sản xuất mở rộng thông qua phân tích lũy tiền tệ từ kết qua thặng dư được đồn tích tái đâu tư mở ròng sản xuất, góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc dân và nhờđó kinh tế tăng trưởng.

vay để cho vay

        Vai trò của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng hết sức quan trọng trong việc huy động và tập trung các nguồn vốn thăng dư nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới hình thức “đi vay” để tái phân phối các nguồn vốn này cho các nhu cầu càn vốn để phát triển kinh tế của các thể nhân và pháp nhân dưới dạng “cho vay”. Song để thực hiện được chức năng “vay để cho vay” phục vụ góp phần tăng trưởng kinh tế, Chính phủ thưởng thông qua Ngân hàng trung ương để có một chính sách lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Bôi lẽ, lãi suất có vai trò kích thích hoặc hạn chế đầu tư, mở rộng hoặc thu hẹp đâu tư ở ngành này, lĩnh vực này. Thực chất lãi suất là một loại giá của tiền tệ để các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý có thể tính toán lựa chọn ngành nghềcân đầu tư để tạo mức lợi nhuận cao.

        Tuy vậy, Chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào lãi suất vi trong cơ chế thị trường “cơ chế lãi suất là cơ chế giá thị trường”. Nhưng Ngân hàng trung ương có thể định ra khung lãi suất để điều chỉnh lãi suất thị trường,chẳng hạn để có thể thu hút tiền tệ,Chính phủ có thể cho phép nới rộng khung lãi suất để năng lái suất tiền gửi nhằm tạo nguồn vốn đôi dào cho tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thơi, sự nhạy cảm của thị trường lại xuất hiện khi lái suất huy động gia tăng thì lãi suất cho vay cũng gia tăng,dẫn đến tác động làm giảm nhu cầu đâu tư. Thệm vào đó khi lãi suất đi vay của các Ngân hàng cao sẽ hút một khối lượng tiền tệ trong tổng quỹ tiền tệ tiêu dùng của xã hội làm thu hẹp thị trường tiêu thụ từ đó cũng làm hạn chế khả năng đầu tư.

        Thông thường theo lý thuyết của các học giả kinh tế để khuyến khích đầu tư các chính phủ đều tìm cách tăng mức cung tiền tệ để giảm lãi suất.. Nhưng cần phải thấy rằng, chính phủ không thể trực tiếp can thiệp vào mức cung tiền tệ cho từng thời kỳ mà chỉ có thể áp dung chính sách “thắt chặt” hoặc “mở rộng”khối cung tiền tệ của nền kinh tế để gián tiếp tác động vào cung cầu tiền tệ và tạo ra các cơ hội để tăng đầu tư trong nền kinh tế.



Công cụ điều tiết và quản lý nền kinh tế của nhà nước

       Từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, Nhà nước trực tiếp can thiệp vào mọi mặt của đòi sống kinh tế-xã hội bằng các mệnh lệnh hành chính, các Cong cụ kinh tế trở thành các phương tiền để thực thi các mệnh lệnh đó bất chấp sự vận động của các quy luật kinh tế, phá vỡ những sợi dây quan hệ kinh tế hữu cơ và triệt tiều các động lực phát triển kinh tế.

      Nay nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước đã tạo ra các cơ hội và tiền đề để xóa bỏ hình thức quản lý trực tiếp theo các chỉ tiêu pháp lệnh, thay vào đó Nhà nước sử dụng các công cụ kinh tế để điều tiết và quản lý nền kinh tế bằng pháp luật.

       Công cụ tiền tệ-tín dụng Ngân hàng là một trong những công cụ trong yếu để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế-xã hội.

Công cụ điều tiết

      Các nhà kinh tế và học giả phương Tây đã quan niệm và thừa nhận tiền tệ như là một sản phẩm kỳ diệu trong số những phát minh kỳ diệu của nhân loại, đóng vai trò như người mở đầu, người năng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia và người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất.

       Kinh tế thị trường có đặc trưng cơ bản là tiền tế được sử dụng như một trong hai công cụ tác động có hiệu lực nhất đến hâu hết các hoạt động kinh tế và điều chỉnh các mặt kinh tế – xã hội, đảm nhiệm thực thi các mối quan hệ kinh tế thông qua hệ thống thị trường: thị trường hàng hóa, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ, thị trường vốn…

       Chính từ đặc trưng này mà hầu hết các quốc gia thực hiện cơ chế kinh tế thị trường đã sử dụng tiền tệ-tín dụng để can thiệp vào các hoạt động kinh tế, quản lý và hướng dẫn các hoạt động đó theo một chính sách nhất định. Bởi vi, tiền tế vừa phản ánh và tác động điều chỉnh kinh tế vừa chi phối thị trường. Đồng thời, thị trường lại phản ánh sự thích nghi của tiền tệ trong nền kinh tế.

       Khác với cơ chế kế hoạch hóa tập trung, vai trò của tiền tệ bị bó hẹp, mối quan hệ tiền tệ, tín dụng luôn luôn được đặt trong khung của các kế hoạch mang tính pháp lệnh. Do đó, tiền tệ trở nền phụ thuộc và mờ nhạt so với các công cụ kế hoạch và giá cả gân như là phương tiện thụ động tham gia quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội.


Đọc thêm tại:

Kiến nghị phương hướng hoàn thiện chính sách thuế

-   Để khắc phục tình trạng thu thuế chồng chéo, trùng lắp của thuế doanh thu đòi hỏi chúng ta cần có kế hoạch nghiên cứu đầy đủ, cụ thể để chuyển đần thuế này sang hình thức thuế trị giá gia tăng, tức loại thuế chỉ đánh vào trị giá tăng thệm ở mỗi khâu sản xuất, lưu thông, trước mắt có thể thực hiện đổi mới thuế doanh thu theo hướng sử dụng cơ cấu thuế suất đơn giản, với mức thuế suất thấp, có thể áp dụng 2 thuế suất: thuế suất ưu đãi áp dụng cho các ngành sản xuất, xây dựng và thuế rất phổ thông đối với ngành dịch vụ, thương nghiệp.

-  Cần xem xét lại việc quy định về thuế suất, cách tính thuế của một số sắc thuế (như thuế doanh thu, thuế lợi tức) và thời điểm nộp thuế nông nghiệp của cây công nghiệp ngắn ngày. Trên cơ sở rà soát lại mức tích lũy và mức thuế huy động đối với các mặt hàng hoặc ngành nghệ, mà xác định lại thuế suất thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp, giải quyết thỏa đáng lợi ích Nhà nước và người nộp thuế. Nhìn chung trong điều kiện sản suất kinh doanh có nhiều biến động như hiên nay chính sách thuế cần phải được điều chỉnh linh hoạt không nền cứng nhắc. Nhiều quy định có thể phù hợp với thời điểm khi ban hành chính sách thuế, nhưng lại trở nền lạc hậu trong quá trình thực hiện một vài năm sau đó. Vì vậy việc sửa đổi, bổ sung chính sách cho phù hợp là một đòi hỏi khách quan nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của công cụ thuế đối với việc phát triển kinh tế.Trong điều kiên hiên nay, để đảm bảo khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vốn để phát triển kinh tế ở nước ta thì vấn đề quan trọng là chính sách thuế đặt ra phải rõ ràng, chắc chắn, làm cho người có vốn đầu tư có thế nhanh chóng tính toán được hiệu quả thu được sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Không nền tạo cho chính sách thuế mang đặc tính thỏa hiệp, thương lượng, có thể vận dụng thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Nếu không định rõ được các chuẩn mực để dựa vào đó mà áp dụng các thuế suất hoặc ưu đãi thuế thì không nền phân biệt đối xử về thuế.

hoàn thiện chính sách thuế

-    Kinh tế thị trường có ưu điểm kích thích cạnh tranh thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng mặt khác nó cũng có khuyết tật nhất định, đó là cạnh tranh về lợi nhuận tối đa dế dẫn đến độc quyền, đâu cơ và sự phá sản của những người sản xuất nhở. Bởi vậy cùng với nhiều biện pháp kinh tế, chính sách thuế cũng cần phải có tác động nhất định trong việc hạn chế khuyết tật này. Để bảo về khu vực kinh doanh có quy mô nhỏ, nhiều nước trên thế giới đã từng có chính sách trợ giúp và điều chỉnh của Nhà nước như: Ở Nhệt mức đánh thuế vào thu nhệp của các doanh nghiệp nhở chỉ xấp xỉ khoảng 2/3 mức thuế đánh vào các doanh nghiệp lớn, hoặc ở CHLB Đức chỉ bằng 50%. Ở pháp còn thực hiên ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp nhở thông qua quy định không đánh thuế lợi tức vào phần chi phí khấu hao nhanh hoặc phân chi phí trả lãi tín dụng, tiền thuê nhà để kinh doanh…Ở nước ta hiên nay đòi hỏi trên đây chưa được đáp ứng rõ nét trong chính sách thuế. Kinh nghiêm nước ngoài trên lĩnh vực này đang đặt ra cho chúng ta những vấn đề cần suy nghĩ để nghiên cứu vận dụng học tập.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế thị trường, nền kinh tế việt nam

Ảnh hưởng của thuế đến nền kinh tế

       Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng, dịch vụ thiết yếu, phổ thông Nhà nước tác động làm cho giá cả hạ, tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng qua đó cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao. Áp dụng thuế suất cao đối với hàng hóa xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng, giảm mức tiêu dùng và sản xuất. Như vậy thuế không những có ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ý muốn của Nhà nước.

       Đối với thuế xuất nhập khẩu, thông qua việc xác định các mặt hàng chịu thuế tương ứng với các mức thuế suất có phân biệt, Nhà nước đã phát huy tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy các hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu theo định hướng đã đề ra.

     Nhìn chung những mặt hàng nhập khẩu mà trong nước đã sản xuất được thì Nhà nước đánh thuế cao nhằm làm cho giá bán cao, từ đó tạo lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường cho các doanh nghiệp trong nước. Để đẩy mạnh hàng xuất khẩu Nhà nước ta đã thực hiện miến thuế doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt cho các sản phẩm xuất khẩu, đồng thời tùy theo mức độ càn khuyến khích xuất khẩu mà Nhà nước ấn địnhcác thuế suất khác nhau cho phù hợp đốivới từng loại mặt hàng.

thuế đến nền kinh tế

      Như vậy, thông qua cơ chế thuế, Nhà nước có thế chủ động phát huy tác dụng điều hành nền kinh tế, co hẹp vào lúc hoàn cảnh quá thịnh hoặc khuyếch trương vào lúc hoàn cảnh suy thoái. Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư. Khi ban hành một sắc thuế, do những yêu cầu về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Nhà nước ta đều có những quy định về đối tượng, phạm vi đánh thuế, thuế suất, điều kiện miễn giảm thuế.

      Một thành công trong đổi mới chính sách thuế vừa qua của ta được đánh giá cao là chứng ta đã thực hiện một chính sách thuế thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Điều này không những phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, mà còn đặt ra đòi hỏi các đơn vị doanh nghiệp quốc doanh phải vươn lên hoạt động có hiệu qua, khắc phục đần hiện tượng ỷ lại vào Nhà nước, hạn chế được những lợi dụng mức chênh lệch về thuế trước đấy để trốn, lậu thuế dưới hình thức núp bóng quốc doanh, tập thể.



Những vấn đề về thuế trong nền kinh tế thị trường

       Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung, tạo ra hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và da số người nghèo cuộc sống vẫn không được cải thiên. Tình trạng trên chẳng những liên quan tới vấn đề đạo đức công bằng mà còn tạo nền sự đối lập giá cấp, và làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn, sự phát triển kinh tế của một Quốc gia là kết quả nỗ lực cộng đòng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế, nếu không chia sẽ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi sự công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế.

vấn đề về thuế

       Việc điều hòa thu nhập được thể hiên qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hàng dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giàu, hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc cá nhân cố thu nhập. Nhìn chung đốitượng cần cố thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, cố thu nhập thấp tin nộp ít, thu nhệp chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thưởng thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội như trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, người tàn tật… Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và kẻ nghèo. Tuy nhiên xét về mặt công bằng của chính sách thuế hiện nay cũng còn một số vấn đề cần đề cập tới, đó là:

- Vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Ví dụ doanh nghiệp tư nhân phải nộp thuế lợi tức bổ sung đối với số lợi tức vượt mức quy định nhưng các doanh nghiệp khác không phải nộp. Hoặc kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi thuế mà các doanh nghiệp khác không được hưởng như: được xét giảm thuế lợi tức trong trường hợp phần lợi nhuận còn lại không đảm bảo mức tối thiểu để trích lập hai quỹ phúc lợi và khen thưởng. Thiết nghĩ chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường việc phân biệt như trên về thuế là không hợp lý, trái với quan điểm cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phân kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển.

-  Việc đánh thuế có phân biệt giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước như hiện nay đã tạo ra những chênh lệch lớn trong cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tìm cách liên doanh với nước ngoài để được hưởng ưu đãi về thuế tránh thuế hợp pháp. Thiết nghĩ việc khuyến khích thu hút vốn đâu tư trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh tế đều có tầm quan trọng như nhau, việc phân biệt đối xử về thuế như đã nêu là không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế, cần thay đổi.

-  Trong các sắc thuế của ta còn đẻ ra nhiều trường hợp ưu đãi miến giảm thuế, nội dung miễn giảm cũng không được quy định rõ ràng nền dễ gây tình trạng tùy tiện trong việc thực hiện luật thuế, không đảm bảo công bằng, vì người này xin được giảm thuế thì người khác cũng tìm mọi cách để đựơc ưu đãi. Người “khôn ngoan, thông minh” biết chạy chọt thì nộp thuế ít, người thật thà chất phác thì thường bị nộp thuế cao.



Vấn đề về thuế trong nền kinh tế thị trường

       Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhâp sẽ càng tập trung, tạo ra hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh chóng và da số người nghèo cuộc sống vẫn không được cải thiên. Tình trạng trên chẳng những liên quan tới vấn đề đạo đức công bằng mà còn tạo nền sự đối lập giá cấp, và làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước. Trong thực tiễn, sự phát triển kinh tế của một Quốc gia là kết quả nỗ lực cộng đòng của toàn dân, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế, nếu không chia sẽ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi sự công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ thuế.

     Việc điều hòa thu nhập được thể hiên qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế đánh cao vào những mặt hàng dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của người giàu, hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc cá nhân cố thu nhập. Nhìn chung đốitượng cần cố thu nhập cao thì phải nộp thuế nhiều, cố thu nhập thấp tin nộp ít, thu nhệp chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình thưởng thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng xã hội như trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, người tàn tật… Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyển dịch thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, để rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và kẻ nghèo. Tuy nhiên xét về mặt công bằng của chính sách thuế hiện nay cũng còn một số vấn đề cần đề cập tới, đó là:

nền kinh tế thị trường

      – Vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh. Ví dụ doanh nghiệp tư nhân phải nộp thuế lợi tức bổ sung đối với số lợi tức vượt mức quy định nhưng cácdoanh nghiệp khác không phải nộp. Hoặc kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi thuế mà các doamh nghiệp khác không được hưởng như: được xét giảm thuế lợi tức trong trường hợp phần lợi nhuận còn lại không đảm bảo mức tối thiểu để trích lập hai quỹ phúc lợi và khen thưởng. Thiết nghĩ chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường việc phân biệt như trên về thuế là không hợp lý, trái với quan điểm cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phân kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển.

       -  Việc đánh thuế có phân biệt giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước như hiện nay đã tạo ra những chênh lệch lớn trong cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tìm cách liên doanh với nước ngoài để được hưởng ưu đãi về thuế tránh thuế hợp pháp. Thiết nghĩ việc khuyến khích thu hút vốn đâu tư trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh tế đều có tầm quan trọng như nhau, việc phân biệt đối xử về thuế như đã nêu là không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế, cần thay đổi.

        -  Trong các sắc thuế của ta còn đẻ ra nhiều trường hợp ưu đãi miến giảm thuế, nội dung miễn giảm cũng không được quy định rõ ràng nền dễ gây tình trạng tùy tiện trong việc thực hiện luật thuế, không đảm bảo công bằng, vì người này xin được giảm thuế thì người khác cũng tìm mọi cách để đựơc ưu đãi. Người “khôn ngoan,thông minh” biết chạy chọt thì nộp thuế ít, người thệt thà chất phác thì thường bị nộp thuế cao.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam

Tồn tại trong công tác tổ chức thuế

     Về cơ bản, chính sách thuế vấn chưa khắc phục được hiện tượng thu thuế chồng chéo, trùng lắp qua các khâu (điều này được thể hiện rõ nét ở việc đánh thuế doanh thu qua các khâu sản xuất, lưu thông) nền đã gây áp lực đẩy giá lên caó làm ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng.

-      Thuế suất của một số sắc thuế hiện nay còn cao, chưa hợp lý nền đã gây cản trả cho sản xuất kinh doanh như thuế doanh thu đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc (2%), hoặc đối với hoạt động kinh doanh tiêu thụ hàng nhệp khẩu (8%), thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia (50%) và pháo (70%). Hiện nay mức cnềnh lệch giữa giá vàng bán ra và mua vào cao nhất cũng chỉ đạt 2% doanh số. Nếu nộp thuế đúng chính sách, thực hiện buôn bán khống gian lận thì các cơ sở kinh doanh vàngkhông thể tồn tại vì không còn thu nhập.Kinh nghiệm quản lý thuế ở nhiều nước cho thấy, mức thuế đặt ra vừa phải thì Nhà nước còn thu được thuế, mức thuế đặt quá cao thì sẽ thúc đẩy tình trạng buôn gian, bán lậu, trốn lậu thuế sẽ phát triển và thất thu ngày càng lớn.

công tác tổ chức thuế

-    Nội dung một số luật thuế hiện nay còn chưa rõ ràng, chắc chắn và có một số điểm chưa phù hợp với thực tiễn khách quan, các nhà đâù tư nước ngoài thưởng có nhận xét, nhìn vào luật thuế đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài người ta không thể tự tính toán được các khoản thuế phải nộp một cách chắc chắn và từ đọ tìm ra hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ thu được qua hoạt động đầu tư vào Việt nam. Đây cũng là một vấn đề đang làm cản trở việc khuyến khích thu hút đầu tư vốn nước ngoài vào nước ta.

     Hoặc cơ sở tính thuế lợi tức hiện nay không tính đến các yếu tố chi phí thiệt hại do khách quan gây ra là một điều bất hợp lý, không thể chấp nhện. Thời điểm nộp thuế nông nghiệp đối với cây lúa và cây công nghiệp (như cây đay) quy định trùng nhau là không thực tiễn, gây khó khăn cho người nộp thuế (cây đay thường tháng tám hàng năm mới có thu hoạch nhưng phải nộp thuế nống nghiệp vào tháng 6 trùng với vụ lúa chiêm xuân, làm cho nông dân phải vay vốn Ngân hàng để nộp thuế trước khi thu hoạch và phải gánh chịu trả lái ngân hàng).


Đọc thêm tại:

Hoàn thiện công tác thuế

      Cần xây dựng một hệ thống thuế tương đối hoàn chính, bao quát được hết các đối tượng và các nguồn phải thu, phải sử dụng các hình thức đa dạng để có thể thu được thuế ở những lĩnh vực, những đối tượng có thể điều tiết. Trước mắt cần nghiên cứu bổ sung chính sách thuế nhằm động viên vào các loại hình sản xuất kinh doanh mới xuất hiên như kinh doanh bất động sản, hoạt động dịch vụ môi giới đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt nam có vốn đâu tư ở nước ngoài… định hướng thu thuế vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ sẽ hình thành như công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán và các chứng phiếu có giá trị… Cần mở rộng diệnthu thuế của một số sắc thuế trên cơ sở sắp xếp lại thuế suất và cơ cấu thuế suất của các loại thuế, cấn thu thuế tiêu thụ đặc biệt vào mật hàng xăng đầu, các dịch vụ cao cấp và một số mặt hàng nhệp khẩu cần hạn chế để bảo vệ sản xuất trong nước và khuyến khích công nghiệp thay thế hàng nhệp khẩu. Có kế hoạch nghiên cứu thuế đánh vào tài sản để khi có điều kiện có thể ban hành thành chính sách cụ thể.

Hoàn thiện công tác thuế

      Thực hiện cơ cấu thuế suất đơn giản, với mức thuế suất vừa phải và mở rộng diện thu thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nền tập trung vào một hoặc hai mục tiêu chủ yếu, không nền buộc cho mỗi sắc thuế phải đáp ứng nhiều mục tiêu cùng một lúc như hiên nay. Để đạt được nhiều mục tiêu như: Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách, kích thích sản xuất phát triển theo đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội thì cần phải sử dung nhiều loại thuế để bổsung lẫn nhau trong một hệ thống thuế nói chung. Ví dụ, đối với những loại hàng hóa, dịch vụ cần điều tiết cao hoặc hạn chế tiêu dùng thì ngoài việc đánh thuế doanh thu, còn phải thu tiếp thuế tiêu thụ đặc biệt và nếu là hàng nhệp khẩu thì thu cả thuế nhập khẩu.

      Xuất phát từ quan điểm này ta sẽ dễ dàng chấp nhện việc đơn giản hóa cơ cấu thuế suất của mỗi sắc thuế. Nhưng thu hẹp số lượng thuế suất của mỗi sắc thuế, không có nghĩanâng cao mức thuế suất, mà cần định ra mức thuế vừa phải và đồng thời mò rộng diện thu thuế để đảm bảo cho nguồn thu Ngân sách không bị ảnh hưởng. Làm như vậy người nộp thuế sẽ dễ dàng chấp nhện nghĩa vụ của mình, quản lý thu, nộp thuế đơn giản ít tốn kém, phù hợp với điều kiện và trình độ của người thu và người nộp thuế, lại tránh được nhiều tiêu cực có thể xảy ra.



Hoàn thiện công tác tổ chức thuế

         Trong thời gian tới vẫn cần coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu. Một hệ thống thuế tốt cần có đặc tính ổn định. Nhà nước luôn cần có nguồn thu ổn định, đủ hiệu quả để đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên ngay cả khi nền kinh tế có những biến động không thuận lợi, vì vậy cần phải có một nguồn thu ổn định. Muốn có hệ thống thuế ổn định về cơ cấu cần coi trọng thuế gián thu, lấy thuế gián thu làm trụ cột cho cả hệ thống thuế.

        Thuế gián thu đánh vào hàng hóa dịch vụ, được tính trong giá cả hàng hóa, dịch vụ (trong nền kinh tế thị trường người ta coi thuế như một loại chi phí của sản xuất kinh doanh), thuế này có khuynh hướng ổn định hơn thuế trực thu vì ngay cả khi kinh tế giảm sút thì người ta vẫn phải mua sắm và tiêu dùng cho những nhu cầu cầm thiết, nhà nước vẫn thu được thuế.

        Thuế trực thu đánh vào thu nhệp, thưởng không ổn định vì nó phụ thuộc vào sự tăng giảm của hiệu quả kinh tế, của thu nhập dân cư và doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế một nước còn kém phát triển như nước ta hiện nay, do năng suất lao động còn thấp, hiệu quả kinh doanh chưa cao, thu nhệp còn ít ỏi nền thuế trực thu chưa trở thành một nguồn thu lớn của Ngân sách. Đồng thời, việc quản lý thuế trực thu rất phức tạp và tốn kém.

Hoàn thiện công tác tổ chức thuế

        Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên lý: việc đánh thuế vào những gì mà đối tượng chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác dụng tốt hơn là đánh vào những gì mà đối tượng chịu thuế nhập vào cho xã hội. Thực hiện phương hướng này, sẽ có lợi cả về mặt nghiệp vụ quản lý lẫn tâm lý người nộp thuế. Về nghiệp vụ, thu thuế gián thu sẽ đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiên, đỡ tốn kém hơn nhiều so với thuế trực thu. Về tâm lý, đánh thuế gián thu người chịu thuế sẽ dễ dàng chấp nhận, đôi khi còn kiêu hãnh khi trả giá cho sự tiêu dùng cao cấp của mình.

         Pháp luật về thuế cần được ban hành đồng bộ, thống nhất từ trên xuống. Thời điểm ban hành về luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành cụ thể, chi tiết chính sách thuế cần đồng bộ cùng một lúc, không cách xa nhau làm ảnh hưởng đến việc thi hành và tính nghiêm túc của luật pháp.

         Nhà nước thống nhất quản lý lệ phí trong cả nước. Việc ban hành lệ phí ở các địa phương phải được phép của cơ quan thuế, tiền thu lệ phí phải nộp cho Ngân sách Nhà nước. Mức thu được tính toán trên nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và điều tiết một phần cho Ngân sách. Đề cao vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành chính sách thuế, chống thất thu có hiệu quả.



Tác động của thuế đến nền kinh tế

      Ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN, thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung câu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển hoặc suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều hành về thuế, lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng nhu cầu, làm giảm bớt sự phát triển kinh tế.

       Lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản xuất suy thoái thì việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng năng cao nhu cầu tổng thể, từ đó mà xúc tiến phục hưng tình trạng kinh tế. Như vậy, thông qua cơ chế thuế, Nhà nước có thế chủ động phát huy tác dụng điều hành nền kinh tế, co hẹp vào lúc hoàn cảnh quá thịnh hoặc khuyếch trương vào lúc hoàn cảnh suy thoái. Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, đến thu nhệp, vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư.

      Khi ban hành một sắc thuế, do những yêu cầu về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Nhà nước ta đều có những quy định về đối tượng, phạm vi đánh thuế, thuế suất, điều kiện miến giảm thuế. Các quy định này xét bề ngoài là một sự cưỡng chế, nhưng bên trong là nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh tế-xã hội nhất định. Việc phân biệt thuế suất đối với các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ hoặc các ngành nghề sản suất kinh doanh, những quy định ưu đãi thuế đối với một số ngành, vùng lãnh thổ, tự nó đã góp phần điều chỉnh việc bở vốn kinh doanh vào ngành nghềnày hay ngành nghề khác, sản phẩm này hay sản phẩm khác, khu vực này hay địa phương khác của các doanh nghiệp mà không cần phải có sự hô hào vận động của Nhà nước. Bởi vì người nộp thuế tự họ sẽ phải tính toán nền đâu tư vốn vào đâu sẽ có lợi và ngược lại.

Tác động của thuế

        Chính sách thuế hiện hành thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước ta là khuyến khích ngành sản xuất hơn dịch vụ và thương nghiệp, các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu được khuyến khích hơn các mặt hàng và dịch vụ khác. Việc quy định thuế lợi tức ưu đãi đối với các dự án đâu tư thuộc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích như sản xuất nhiều hàng hóa xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhệp khẩu cần thiết mà trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, đầu tư vào những vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội không thuận lợi… nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế một cách đồng bộ trong cả nước và theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân.



Hạn chế của thuế trong điều chỉnh vĩ mô

           Chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với điều kiên và trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu còn lẫn lộn trong các sắc thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng.  Do mỗi sắc thuế hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cùng một lúc nền cơ cấu thuế suất thưởng phức tạp, có nhiều thụế suất khác nhau. Ví dụ thuế doanh thu có 16 thuế suất, thuế xuất khẩu có 11 thuế suất, thuế nhệp khẩu có 26 thuế suất…
         Thậm chí trong cùng một ngành nghệ cũng phân biệt thuế suất khá chềnh lệch như thuế doanh thu của luyện kim đen 2%, luyện kim màu 4%, kinh doanh tiêu thụ hàng nội địa 1%, tiêu thụ hàng nhập khẩu 8%.
         Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xác định rô những phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nền đả gây khó khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, đã gây tùy tiền và tiêu cực khi thực hiên. Biểu thuế suất khẩu, thuế nhệp khẩu hiên có tới 50.000 mặt hàng khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại, chương, nhóm nào được, nhưng có mặt hàng lại có thể xếp vào nhiều loại, chương, nhóm khác nhau. Việc phân biệt quá chi li về thuế vừa gây chệm trễ, khó khăn cho việc tra cứu để tính và nộp thuế, vừa- phải chi phí tốn kém cho việc quản lý thuế mà cuối cùng vẫn không đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Mặt khác phạm vi miễn, giảm thuế còn quá rộng và chưa theo một nguyên tắc nhất quán nền đã khiến cho nguồn thu về thuế bị ăn mòn, đồng thời tạo kẽ hở trốn, tránh thuế, tỉ lệ thuế đặt ra do đó không sao phát huy được trọn vẹn.

Hạn chế của thuế

          Việc ban hành luật pháp về thuế chưa đồng bộ, thời điểm ban hành giữa luật, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết chính sách thuế còn cách xa nhau nên đã làm cho người thi hành phải chờ đợi khá lâu, không những làm cho việc thu thuế bị chậm chế, mà còn làm cho tác dụng của pháp luật bị Hẹn chế. Hơn nữa điều này còn tạo ra tâm lý coi trọng thông tư hơn luật, pháp lệnh, coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp. Quan niệm này hoàn toàn xa lạ với những tiêu chuẩn Nhà nước pháp quyền trong hện kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng .
          Sự thống nhất của pháp luật không được thực hiên nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng ngành chủ quản tự hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành nộp thuế khác với luật quy định làm rối trong việc trong việc thực hiện chính sách thuế ở cơ sở. Tình trạng “loạn phí, lệ phí” còn diễn ra phổ biến ở các địa phương, Nhà nước không thể kiểm soát nổi, hầu hết các khoản thu này không được nộp vào NSNN và sử dụng có hiệu quả. Bên ranh đó vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành luật và pháp lệnh còn bị xem nhẹ nền vấn đề dây dưa nợ thuế, thất thu còn xây ra rất đa dạng và phức tạp.


Đọc thêm tại:

Tác động của thuế trong điều chỉnh vĩ mô

       Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu như:
– Huy động nguồn thu cho NSNN
– Điều chỉnh kinh tế
– Điều hòa thu nhập, góp phần thực hiên công bằng trong phân phối.
          Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu các vai trò cụ thể của thuế.
         Thuế là công cụ đế huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN
          Huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN là vai trò chủ yếu của nhiều chính sách thuế. Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Thuế là nguồn vật chất quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bộ máy quyền lưc Nhà nước.
          Qua gần hai năm thi hành đổi mới hệ thống thuế, vai trò huy động nguồn thu cho NSNN đã được thực hiện và phát huy mạnh mẽ trong thực tiến cuộc sống. Thuế đả được ban hành dưới hình thức luật và pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thuế đã được năng lên rõ rệt nền đã có tác dụng năng cao quyền lực của Nhà nước trong việc thu thuế và ý thức trách nhiệm, nghía vụ của người nộp thuế. Nguồn thu về thuế đá tăng lên đáng kể, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu Ngân sách và đáp ứng đươc nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ nước ngoài của Ngân sách Nhà nước, góp phân chống lạm phát và ổn định vật giá. Năm 1991 là năm đầu thực hiện các luật, pháp lệnh thuế mới, số thu về thuế so với năm trước tăng 78% và chiếm xấp xi 80% tổng số thu Ngân sách.

Tác động của thuế

            Tuy nhiên, qua kiểm nghiệm trong thực tế, hệ thống thuế mới cũng còn bộc lộ một số tồn tại là: chưa bao quát được hết nguồn thu, chính sách thuế còn phức tạp chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động về thuế còn nhiều kẽ hồ tạo cho các đối tượng có thể trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế, tình trạng thất thu còn phổ biến, cụ thể:
            Hệ thống thuế của ta hiên nay gồm 11 sắc thuế khác nhau, xét về số lượng các loại thuế thì không nhiều, có thể thu gọn hơn (thuế sát sinh có thể gộp vào thuế doanh thu). Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh mới, đối tượng thu mới đá và đang xuất hiện, cho đến nay ta vẫn chưa có chính sách thu hoặc chưa nghiên cứu định hướng thu cho phù hợp như: hoạt động kinh doanh bất đòng sản, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt nam có vốn đầu tư ở nước ngoài, dịch vụ mòi giới đấu tư, công ty cổ phần… Động viên về thuế hiện hành cũng chưa đề cập đến việc phân phối lại một phần vào tích lũy của quá khứ như thuế tài sản, thuế thừa kế… Hoặc ngay trong từng sắc thuế, diện thu thuế cũng còn bị hạn chế chưa được nghiên cứu mở rộng, như chưa thực hiện thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng đầu, dịch vụ cao cấp ( như tắm hơi, mát sa…) hoặc một số mặt hàng nhệp khẩu cần hạn chế để bảo về sản xuất nội địa và thúc đẩy phát triển công nghiệp thây thế hàng nhệp khẩu.



Vai trò của thuế trong điều chỉnh kinh tế Nhà nước

         Thuế là một hình thức phân phối lại được Nhà nước sử dụng để động viên một phần thu nhập của các pháp nhân và thể nhân, là khoản đóng góp mang tính chất pháp lênh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc các tổ chức kinh tế phải nộp cho Ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Khoản nộp về thuế mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả dưới dạng gián tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan, xuất hiện và tòn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiên của sản phẩm thặng dư. Để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của mình và của xã hội, Nhà nước phải dùng quyền lực để tham dự vào việc phân phối một phân sản phẩm xã hội, đặt ra chế độ thuế buộc mọi người dân phải đóng góp. Phương thức động viên tài chính đầu tiền xuất hiên trong lịch sử, đó là thuế.
Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự phát triển ngày càng cao của kinh tế hàng hóa, tiền tệ, sự gia tặng mạnh mẽ của quyền lực Nhà nước đã phát sinh ra những chi tiêu to lớn và làm nảy sinh những biến đổi mới về thuế, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và phát triển có tính hệ thống. Với những bước tiến của lịch sử, chỉ dùng thuế không đủ, Nhà nước còn phải phát hành công trái hoặc phát hành thệm giấy bạc, nhưng thuế vẫn là phương thức động viên tài chính chủ yếu của Nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau. Hiện nay thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước ta, chiếm xấp xỉ 85% tổng số thu Ngân sách. Nó đã đảm bảo được các khoản chi thưởng xuyên và trả nợ của NSNN. Điều này đã chứng minh vai trò và ý nghía quan trọng của thuế đối với nền tài chính của nước ta.

Vai trò của thuế

         Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường thì sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước phải phù hợp với yêu hầu khách quan, không thể là sự can thiệp tùy tiền bằng mênh lệnh hành chinh, mà là tìm tòi những phương thức và công cụ có hiệu quả để quy luật giá trị và các quy luật khác của liên sản xuất hàng hóa có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khắc phục tính tự phát của thị trường. Nhà nước điều chỉnh thị trường bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, bằng chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, tín dụng, lãi suất,thuế là chủ yếu. Sự điều chỉnh của Nhà nước phải nhanh nhay và linh hoạt để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, có hiệu quả và công bằng xã hội. Nhà nước điều khiển thị trường và thị trường định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Trong nhiều công cụ kinh tế được Nhà nước sử đụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thì thuế là một phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu càu của thực tiễn, thì nó sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hệu, thúc đẩy liên kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp sẽ trở thành một vật cản, gây trồ ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế,làm cho nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thệm chí có thể gây nền khủng hoảng kinh tế và chính trị.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam