Thực thi chính sách tài chính – tiền tệ khắt khe

         Nâng cấp hoạt động của hệ thống tín dụng, khuyến khích các ngân hàng thực hiện chinh sách tiền tệ “mở rộng nguồn vốn” bằng mức lái suất dương, thực hiện nguyên tắc vay để cho vay. Tiến tới thực tế là, khách hàng hoàn toàn được chọn ngân hàng để vay, đến lượt mình, ngân hàng cũng có quyền chủ động chọn khách hàng làm ăn có hiệu quả để đâu tư không phân biệt, thành phần kinh tế.
         Thi hành chính sách ngoại hối hợp lý nhầm thu hút ngoại tế vào tay Nhà nước, tiến tới thành lập thị trường hối đoái, kinh doanh ngoại tệ.
         Chuyển từ nền tài chính đơn nhất (tài chính khu vực Nhà nước) sang nền tài chính quốc gia nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực tài chính, chú trọng tài chính trong nước, đồng thời tranh thủ mở rộng và khai thác các nguồn tài chính từ bên ngoài. Xây dựng chính sách tài chính tích cực tập trung nguồn thu cho Nhà nước, đồng thời tạo điều kiên cho các cơ sở kinh doanh tích tụ, tập trung vốn để phát triển và mở rộng sản xuất.
        Từng bước giảm thâm hụt ngân sách, phấn đấu cân bằng NSNN. Xử lý thâm hụt ngân sách chủ yếu thông qua vay dân dưới hình thức tín phiếu kho bạc, công trái, vay nước ngoài, giảm phát hành tiền mặt, tiến tới chấm dứt phát hành để chi tiêu.

chính sách tài chính – tiền tệ khắt khe

– Kiên quyết chống bao cấp trong chi NSNN đối với XNQD dưới hình thức bù lỗ, cấp vốn, bao cấp qua giá, vật tư, nguyên vật liệu.
– Tăng cường pháp luật tài chính nhằm tạo môi trường cho hoạt động kinh tế, khôi phục kỷ cương, kỷ luật tài chính.
– Phấn đấu quản lý, điều hành tài chính trên cơ sở pháp lý, luật lệ.
– Sau khi áp dụng hệ thống thuế thống nhất từ 1987, trên cơ sở thực tiễn, tiếp tục hoàn chỉnh hê thống luật thuế, các vãn bản quản lý tài chính đối với XNQD, các doanh nghiệp phi quốc doanh, giảm thuế khuyến khích sản xuất, mở rộng cơ sở thu để đảm bảo nguồn thu. Tổ chức và kiện toàn lại công tác quản lý, thu thuế.
– Đổi mới tổ chức và điều hành NSNN, bố trí lại cơ cấu chi tiêu cho phù hợp với thực tế và điều kiện mới. Tổ chức điều hành ngân sách qua kho bạc, năng cao hiệu quả hoạt động của hê thống này.
– Mở rộng mạnh mẽ tài chính đối ngoại nhằm thu hút vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức: đâu tự, liên doanh, vay nợ, viện trợ.
         Tóm lại, Việt nam chủ trương thực thi chính sách tài chính – tiền tệ khắt khe, từng bước thiết lập giới hạn ngân sách cứng đối với mọi doanh nghiệp, tạo ra môi trường tài chính – tiền tệ ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế, góp phần giải quyết công ăn việc làm, các vấn đề xã hội.



Vấn đề lựa chọn mô hình kinh tế ở Việt Nam

        Nếu cụ thể hóa hơn một bước, có thể phân kinh tế thị trường thành 3 dạng (nói đúng hơn là 3 nấc thang).
        Để đánh giá hiệu quả của một mô hình kính tế phải đứng trên hai góc độ: 

        Góc đô hiệu quả xã hội, nhưng phải ưu tiền hiệu quả kinh tế hơn, bởi lẽ nó là cơ sở vật chất cho giải quyết các vấn đề xã hội.
         Trong kinh tế thị trường, mô hình dân chủ – xã hội Tây âu là mò hình có khả năng thực hiện các nguyên tắc công bằng xã hội và đảm bảo mức sống cao cho quần chúng lao động hơn là mô hình kinh tế tự do cổ điển (mà Mỹ là nước gần gũi nhất). Mò hình Tây âu có ưu thế trong giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Dưới góc đô hiệu quả kinh tế (năng suất và hiệu suất) thì mô hình Mỹ có ưu thế nhất.
         Vấn đề đặt ra là chọn được điểm chuẩn giữa ưu tiền kinh tế và xã hội. Sự sụp đổ của Thụy điển buộc người ta phải xem xét lại mô hình Tây âu và điều chỉnh ưu tiền xã hội. Nhật bản là mô hình giữa, nếu so với Tây âu nó có ưu thế hiệu quả kinh tế, nếu so với Mỹ nó giải quyết vấn đề xã hội tốt hơn.
         Theo các chuyền gia kinh tế Nhật thì mô hình Nhật bản (trong đó có sự kết hợp điều tiết Nhà nước, kế hoạch định hướng với cơ chế thị trường) có khả năng kết hợp hài hòa hơn trong giải quyết tương quan hiệu quả kinh tế và ưu tiền xã hội. Để minh họa cho giải quyết vấn đề công bằng xã hội, các tác giả Nhật dùng chỉ số.

 mô hình kinh tế ở Việt Nam

          Vấn đề lựa chọn mô hình như đã nêu trên phải xuất phát từ thực tế mỗi nước, sự lựa chọn chế độ chính trị, hơn nữa chúng ta khồng thể nhảy cóc đến các mô hình hiệu quả. Tất cả là một quá trình tiến hóa, đào thải và chọn lọc phát triển.
Điều 15, chương 2, Hiến pháp 1992 Việt nam quy định “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN… .
Điều 16 “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là dân giàu, nước mạnh… phát huy mọi tỉêm năng của các thành phần kinh tế: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức…”
        Như vậy, mô hình kinh tế Việt nam lựa chọn rỗ ràng là “mô hình kinh tế hỗn hợp” có điều tiết Nhà nước theo định hướng XHCN. ơ đây dàn hiểu vai trò chủ đạo của sỗ hữu toàn dân (khu vực kinh tế Nhà nước) – là tạo ra các tiền đè chung, quan trọng cho sự phát triển hiệu quả của toàn bộ hèn kinh tế.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế thị trường, nền kinh tế việt nam

Các luồng chuyển dịch giá trị các nguồn lực tài chính

         Chu trình tuần hoàn của nền kinh tế diễn ra qua 4 khâu khép kín: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng, đan xen ở nhiều lĩnh vực của các hoạt động kinh tế, đời sống, xã hội. Tương ứng với chu trình thân hoàn đó là các luồng chuyển dịch không ngừng giá trị các nguồn lực tài chính, tạo ra hàng loạt các mối quan hệ qua lại dưới hình thức giá trị của nguồn lực đó. Nó diễn ra ở mọi khu vực: hành chính Nhà nước, hoạt động kinh doanh và đời sống dân cư. Nguồn tài chính không chỉ bó hẹp ở dạng tiền tệ vận động qua hai kênh ngân sách và ngân hàng trong phạm vi hoạt động kinh tế của khu vực Nhà nước. Nguồn lực tài chính luân chuyển theo nhiều kênh trong nền kinh tế thị trường bao gồm giá trị của cải xã hội, tài sản quốc gia, tổng sản phẩm quốc dân ở cả dạng vật chất và tiềm năng. Hơn nữa chúng hình thành, vận động và chuyên dịch xoay quanh thị trường tài chính để tạo lập nền các qũy tiền tệ và sử dụng vào các mục đích gắn liên với các chủ thể kinh tế, xã hội. Các chủ thể này chính là các tế bào của thị trường tài chính, luôn phát sinh các mối quan hệ kinh tế qua lại giữa chúng với nhau hoặc thông qua thị trường tài chính trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.

nguồn lực tài chính

         Tuy nhiên cũng cần nhận thức rằng các chủ thể kinh tế, xã hội hay các tế bào của thị trường tài chính không chỉ là các thực thể tài chính của khu vực Nhà nước, nó còn mở rông và phát triển ở cả khu vực tư nhân.
        Vì thế có thể hiểu tài chính trong nền kinh tế thị trương là biểu hiện tổng hợp các mói quan hệ kinh tế của cóc thực thể tài chính nảy sinh trong quá trình tạo lập, phàn phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.
        Điều phân tích và nhận định tài chính như trên mới chỉ phản ảnh được khía cạnh bản chất của tài chính, để hiểu rõ hơn phạm trù tài chính chúng ta đi sâu phấn tích hệ thống tài chính và các chức năng của nó.



Lý luận kinh điển và thực tiễn về tài chính

        Lý luận kinh điển và thực tiễn hàng tràm năm qua diễn ra trong các nước thực hiện cơ chế kinh tế thị trường cho thấy tài chính gắn liên với các hoạt động kinh tế dưới hình thức vận động của giá trị. Sự tồn tại của Nhà nước và kinh tế hàng hóa là 2 tiền đề cho sự ra đời tồn tại và phát triển của tài chính. Tuy nhiên không có danh giới phấn biệt tiền đề nào là chủ yếu,quyết định và bản thân tài chính hoàn toàn không thụ động, phụ thuộc mà luôn tác động qua lại thông qua cơ chế quản lý kinh tế.
        Tài chính trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao độ, chịu tác động và ảnh hưởng nặng hệ của tính chất đơn nhất hóa Nhà nước, nhận thức quan niệm về bản chất, chức năng, vai trò vị trí của tài chính bị gắn chặt vào tính chất Nhà nước, bị bó hẹp phạm vi trong các hoạt động kinh tế của khu vực có tâm bao quát của Nhà nước. Vì thế đã dẫn đến nhận thức cho rằng Tài chính chỉ là các quan hệ phân phối nảy sinh trong các quá trình phân chia tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung.

 thực tiễn về tài chính

         Quan niệm về hệ thống tài chính theo hình thức phân chia thành tài chính tập trung và tài chính phi tập trung đã toát lên hình ảnh của hệ thống tài chính gắn chặt vào hệ thống Nhà nước, tách rời với sự vận động của các quy luật kinh tế diễn ra ở cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Do đó, giá trị của cải xã hội và tài sản quốc gia trở nền nằm ngoài phạm vi phân phối của tài chính. Vai trò của tài chính thụ động trong việc thực hiên các mênh lệnh hành chính của Nhà nước, các công cụ hành chính bị xếp vào hàng thứ yếu, thậm chí bị lãng quên khi Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế – xã hội. Sự vận động của các mối quan hệ phân phối của tài chính để hình thành nền các quỹ tiền tệ thưởng không tuân thủ sự vận động khách quan của các quy luật giá trị, trái lại nó phụ thuộc và bị khép lại trong giới hạn của các mệnh lệnh hành chính và chỉ tiêu kế hoạch.
          Chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, các hoạt động kinh tế không bị ràng buộc bởi các hàng rào kế hoạch hóa pháp lênh, sự vận động của các quỹ tiền tế trở nền đa dạng, vai trò và tính chất Nhà nước hóa đã được dung hòa bởi tính chất xã hôi hóa, dưới nhiều hình thức sở hữu, hoạt động kinh tế diễn ra ở mọi lĩnh vực theo sự vận động các quy luật thị trường tác động đến các quá trình chu chuyển các nguồn lực tài chính. Do đó, vấn đề tìm hiểu và nhận thức lại cơ sở lý luận của tài chính trong kinh tế thị trường là vấn đề cốt lõi mở đường cho việc đề ra các quan điểm và chính sách để Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính vào việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.


Đọc thêm tại:

Những định hướng chủ yếu của chính sách tài chính – tiền tệ

       Định hướng XHCN: Mục tiêu của sản xuất là vì con người, trên cơ sở năng cao hiệu quả kinh tế giải quyết các vấn đè xã hội tiến đân tới sự công bằng kinh tế – xã hội. Nói đúng hơn là giải quyết tốt vấn đề hiệu quả kinh tể và công băng xã hội…
Vấn đề đặt ra là làm sao thiết lập nền kinh tế có cơ cấụ hợp lý, cân đối và gắn bó hữu cơ giữa các thành phân kinh tế trong một chính thể thống nhất. Mặt khác, phải tìm ra cơ chế kết hợp điều tiết Nhà nước với cơ chế thị trương, tạo ra cơ chế kinh tế hiệu quả. Để có được mô hình cụ thể thích hợp ngoài sự định hướng chúng ta cần có thời gian và thực tiễn.
Chính sách tài chính – tiền tệ trong quá trình chuyển đổi cơ chế:
        Tài chính – tiền tế là mặt trận quan trọng số một, trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế nó vừa phải tạo môi trường, vừa định hướng cho toàn bộ nền kinh tế, mặt khác bản thân nó phải là khâu đột phá chủ yếu trong việc tháo gỡ cơ chế.
          Sau khi quan điểm chuyển sang kinh tế thị trường được chấp thuận, chính phủ lập tức bắt tay cải tổ lĩnh vực tài chính – ttiền tệ. Mục tiêu trực tiếp là thiết lập cho được cơ chế tài chính – tiền tế hoàn chỉnh bởi đây là điều kiện tiền quyết cho việc kiến tạo nền kinh tế hiệu quả. Trong lĩnh vực tài chính – tiền tế, mục tiêu quán xuyến nhất quán là: ổn định tiền tế, bảo vế giá trị đối nội, đối ngoại của đồng tiền, nhằm đạt mục hai mục đích kinh tế quan trọng nhất là “ổn định và tăng trưởng kinh tế” hoặc gộp lại là “tăng trưởng kinh tế trong ổn định”.

chính sách tài chính – tiền tệ

           Những định hướng chủ yếu của chính sách tài chính – tiền tệ:
Một là, thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp (NHTW và hè thống ngân hàng thương mại), trong đó NHTW chỉ thực hiện các chức năng vốn có của mình trong nền kinh tế thị trường, chức náng kinh doanh tiền tệ, cung ứng vốn cho các doanh nghiệp cơ bản do hê thống ngân hàng thương mại đảm nhiêm.
Hai là, thông qua chính sách tài chính – tỉèn tệ phải khống chế cho được khối lượng tiền cung ứng trong thời gian nhất đỉnh sao cho phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế (mức tăng trưởng thực tế cộng với mức trượt giá đã được khống chế).
Ba là, chủ trương đa dạng hóa hoạt động tín dụng, lôi cuốn các thành phần phi quốc doanh, nước ngoài tham gia hệ thống tín dụng, đa dạng hóa các thành phản của khối lượng tiền tệ bằng cách thu hút các thành phần kinh tế, dân cư mở tài khoản không kỳ hạn và thanh toán qua ngân hàng.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam

Giai đoạn quyết định của cải tổ kinh tế

        Theo đánh giá của Chính phủ, các tổ chức quốc tế cải tổ kinh tế Việt Nam đã thu dược thành tựu tương đối khả quan, đặc biệt trong lĩnh vực nan giải nhất: tiền tế, lạm phát, tài chính và đạt được tính đồng bộ khá cao, giảm lạm phát kèm theo sự ổn định kinh tế.
         Giai đoạn 2 – giai đoạn quyết định của cải tổ mà nhiệm vụ chính của nó – hoàn tất những vấn đề cơ bản trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, đặt cơ sở vững chắc cho giai đoạn tăng trưởng mới. Có thể nói, bước đệm đã tạo ra điều kiên cần và đủ để bước vào cải tổ khâu quan trọng nhất: khu vực kinh tế Nhà nước và thiết lập hệ thống sở hữu phù hợp với kinh tế thị trường. Sau khi xác định chính xác các lĩnh vực Nhà nước cân phải nắm, phần lớn XNQD sẽ được cải tổ lại chủ yếu theo hướng công ty cổ phần, công ty liền doanh…
– Tiếp tục bổ sung, nấng cấp hệ thống luật pháp lên trình độ cao hơn.
– Hoàn thiên hê thống công cụ tài chính – tiền tệ, cơ chế kinh tế mới, năng cao khả năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong kinh tế thị trường.
– Bắt tay vào thiết lập thị trường vốn, chứng khoán, hoàn thiện hệ thống ngân hàng -‘tín dụng.
– Nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của chính phủ: thiết lập hê thống giao thông, thông tin, đường xã, năng cấp toàn bộ hạ tàng cơ sở vật chất – tài chính cho nền kinh tế thị trường.

cải tổ kinh tế

          Vấn đề lựa chọn mô hình kinh tế của Vièt nam:
          Mô hình kinh tế hiệu quả là mô hình có khả năng động viên, khuyến khích sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng hiên có, sẽ có của một quốc gia, năng cao hiệu quả kinh tế, trên cơ sở đó giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội.
         Để thiết lập mô hình hiệu quả, ngoài việc tạo ra nền kinh tế có cơ cấu hợp lý thì nó phải bao hàm được các yếu tố như: tính đến đặc thù, tâm lý, hoàn cảnh lịch sử, vàn hóa của dân tộc, kết hợp được tính thời đại và tính dân tộc.
          Về góc độ kinh tế, phải tạo ra hệ thống kinh tế có khả năng khuyến khích tăng trưởng ổn định, kết hợp tốt cơ chế điều tiết Nhà nước với cơ chế thị trường. Hệ thống này phải có 2 điều kiên:
– Có khả năng tự điều chỉnh cao các nghiệp vụ, hoạt động hiện tại (yếu tố nội tại của cơ chế kinh tế).
– Chiến lược phát triển trung và dài hạn phải thực hiện dưới sự định hướng, chỉ đạo của Nhà nước.
Trên thế giới không hê tòn tại mô hình kinh tế thùần túy (thị trường hay kế hoạch) mà đa phần là kinh tế hỗn hợp, cái khác nhau là cơ cấu cụ thể, phạm vi điều tiết Nhà nước, thị trường.


Đọc thêm tại:

Những bước đi và vai trò tổ chức của Nhà nước trong quá trình chuyển đổi

        Việt nam được tiếp thu cơ sở CNTB ở miền Nam. Khả nàng kinh doanh thị trường vẫn tồn tại, khu vực phi quốc doanh phát triển năng động và thích nghi với cải tổ. Kiêu bào nước ngoài là nguồn bổ sung kiến thức kinh doanh vốn, KHKT.
        Trước hoàn cảnh cụ thể Chính phủ Việt nam đã lựa chọn:
Lấy sự Ổn định kinh tế – chính trị – xã hội làm tiền đè quan trọng cho quá trình chuyển đổi cơ chế cơ chế.
Mặc dù rất chú trọng, tích cực mở cửa kinh tế song tư tưởng chủ đạo vẫn là: Lấy động lực nội tại làm cơ sò, khuyến khích mọi tiêm năng kinh tế hiện có nhằm giải quyết các vấn đề bức thiết của đất nước, từng bước năng cao hiệu quả kinh tế, chuẩn bị điều kiện cho đất nước hòa nhập vào kinh tế thế giới.
Chuyển sang cơ chế thị trường thận trọng, từ từ nhưng nhất quán.
          Những bước đi cu thể và vai trò tổ chức của Nhà nước trong quá trình chuyển đổi:

Nhà nước trong quá trình chuyển đổi

Ổn định kinh tế và tạo ra bước đệm (1988 -1992):
+ Chống lạm phát và kìm chế lạm phát ở mức thấp.
+ Từng bước tổ chức lại guồng máy quản lý Nhà nước, tinh giảm và năng cao hiệu suất hoạt động của nó.
+ Cải tổ một bước quan trọng hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia: thực hiện chính sách tiền tế – tín dụng khắt khe, thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp. Cải tổ hệ thống ngân sách, thông qua hê thống thuế mới, năng cao vai trò điều tiết vĩ mô của chúng, từng bước giảm thâm hụt ngân sách tiến tới cân bằng trong trạng thái động. Nghiên cứu, khảo sát, chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời hoạt động của thị trường tài chính, tíén tệ, chứng khoán.
+ Song song với cải tổ cơ cấu hệ thống tài chính – tiền tế, Việt nam tiến hành cải tổ khu vực sản xuất: trong nông nghiệp thực hiện chính sách khoán, giao quuyền sử dụng đất đai lâu dài. Khuyến khích hoạt động khu vực kinh tế tư nhân, cải tổ XNQD theo hướng mở rông quyền tự chủ và năng cao trách nhiêm đối với hoạt động sản xuất, tiến hành thí điểm các hình thức tổ chức sản xuất mới (công ty, xí nghiệp cổ phần…).
+ Thông qua, bổ sung hệ thống luật pháp, luật lệ kinh tế nhầm đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường.
+ Thả giá từng bước, hủy bở kiểm soát giá trực tiếp ở đa số mặt hàng.



Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển sang kinh tế thị trường

        Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trinh chuyền sang kinh tế thị trường:
        Vấn đề then chốt là làm sao thực hiên một cách hiệu quả nhất quá trình chuyển đổi cơ chế. Rõ ràng không có giải pháp chung cho mọi quốc gia, bước đi đâu tiền sang cơ chế mới là “Hãy chấm dứt việc sao chép những mô hình kinh tế không thích hợp, đừng tự hủy hoại mình bởi việc sao chép mô hình các nước phương Tây
        Tuy vậy quá trình này cũng có những nét chung:
        Vấn đề khu vực kinh tế quốc doanh. Nhìn chung ngày càng khó duy trì vì mức độ sử dụng (phí tổn) của nó ở đa số các nước XHCN lớn hơn nhiều mức cống hiến cho xã hội. Đầu tư (nhân tài vật lực) đổ vào đấy quá nhiều nhưng không cho ra hiệu quả. Ngành quốc doanh trở thành biểu hiện cho hoạt động kinh tế kém cởi của Nhà nước. Sự thua lỗ của khu vực này một mặt gây sức ép tài chính nghiêm trọng, mặt khác tạo ra áp lực lạm phát, hạn chế sự năng động của Chính phủ. Vì vậy phải đóng cửa, giảm số lượng và cải tổ chúng.
        Sản xuất được quyết định bởi quan hệ cung – cầu thì hiệu quả mới được nấng lên, khi kế hoạch quyết định theo tiêu chuẩn chính trị thi sự méo mó của toàn bộ nền kinh tế sẽ hết sức nghiêm trọng và điều chỉnh sẽ rất đau đớn.

chuyển sang kinh tế thị trường

        Liệu pháp sốc không phải là giải pháp tất yếu cho quá trình chuyển đổi cơ chế, Mức độ cải tổ phải căn cứ vào môi trường kinh tế trong nước, có tính đến quan hệ kinh tế đối ngoại. Ví dụ cụ thể nhất: Ba lan ứng lụng phương án cường độ mạnh vì kinh tế quá tiêu điều, nợ chồng chất, thâm hụt ngân sách rất lớn, khả năng hỗ trơ từ bên ngoài lớn. Trong khi đo, tuy có sự ngưng trê, nhưng suy thoái kinh tế không nghiêm trọng, nợ nước ngoài ít nền Tiệp khắc không cần liệu pháp sốc.
         Ảnh hưởng của cải tổ trước đây đối với cải tổ hiện nay. Từ 1968 Hungari đã cải tổ vi vậy khu vực tư nhân của họ hiện nay sôi động, ít tranh luận về cải cách. Hungari chuyển đổi cơ chế từ từ, thận trọng, là mô hình kinh tế “hài hòa” nhất của Trung và Đồng âu, duy trì được mức sống tương đối cao.
         Vấn đề cân bằng giữa tốc độ và phân giải tác động do cải tổ gây ra đối với xã hội. Thủ tiêu nhanh sự méo mó kinh tế là đúng, song không nền nhanh tới mức mà mọi người không chịu đựng nổi. Đến giữa năm 92 thực tế Ba lan cho thấy “thời gian cần thiết để chuyển đổi toàn diện cơ chế kinh tế sẽ có thể dài hơn nhiều so với dự kiến”. Trong khi đó các nước cải tổ từ từ, tuần tự lại thu được kết quả khả quan, họ trải đều sự tác động của cải tổ theo thời gian (Điển hình là Mê hy cô, Trung quốc)
Tóm lại, tốc độ cải cách phải phù hợp với thực tế mỗi nước.



So sánh quá trình chuyển đổi cơ chế

        Quá trình chuyển đổi cơ chế Trung và Đông Âu trở nền rắc rối chủ yếu là do:
– Chưa có quan điểm rõ ràng, bao quát về thị trường, kinh tế thị trường. Người ta cảm nhận vấn đề này vừa nôn nóng vừa chung chung. Trên thực tế không tồn tại thị trường nói chung, hơn nữa thị trường ở mỗi nước cũng khác nhau.
– Mất ổn định chính trị, lập trường cải tổ thiếu nhất quán, kiên quyết. Hướng tới kinh tế thị trường vàn minh là xu hướng mang tính thời đại, quá trình lịch sử lâu dài, chế độ kinh tế Tây âu, Nhật, Mỹ là kết quả tiến hóa nhĩêu thế kỷ, vì vậy chuyển đổi cơ chế không phải là công việc một sớm, một chiệu. Tuy một phần mang tính tự đào thải, song kinh tế thị trường cơ.bản là do toàn bộ hoạt động kinh tế, lập pháp của Nhà nước tạo ra.
       Căn cứ vào trình độ, mức độ hiệu quả, có thể phân chia thành hai cấp độ: Thị trường công nghiệp – vàn minh và kinh tế thị trường “đặc biệt”, nói đúng hơn là loại thị trường đầu cơ vụ lợi hình thành ở châu Á, Phi, Mỹ la tinh. Quan hệ thị trường ờ đây chủ yếu bao trùm lên lĩnh vực phân phối, tái phân phối, ở mức độ nào đó thị trường này mang tính ăn bám vì vậy không nền phát triển nó.

chuyển đổi cơ chế

        Chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt nam là cuộc cải tổ kinh tế triệt để, toàn diện bao trùm lên mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội. Nếu xét về quy mô, tính toàn diện, mục đích có thể xem đây là cuộc cách mạng thứ hai nhằm đem lại sức sống, sự nấng động cho nền kinh tế, hạnh phúc cho dân tộc Việt nam. Trong quá trình này:
– Việt nam phải tự khắc phục những thiếu sót trong quá khứ.
– Vừa kiến tạo, xây dựng và hoàn thiện cái mới.
        Cải tổ bao gồm: chuyển đổi và năng cao hiệu suất hoạt động của toàn bộ cơ chế kinh tế, guồng máy Nhà nước, thiết lập hệ thống pháp lý, luật lệ, cải tổ cơ cấu kinh tế, đổi mới lề lối, tư duy kinh doanh và làm việc. Trong đó việc thiết lập hệ thống sở hữu đáp ứng cơ chế thị trường là trụ cột quan trọng nhất, khâu trung tâm của cải cách là tạo ra hê thống tài chính – tiến tệ – tín dụng hiệu quả có khả năng phối hợp, điều chỉnh toàn bộ hoạt động của liên kinh tế.



Việt nam chuyển sang cơ chế thị trường

        Tốc độ, phạm vi cải tổ có ảnh hưởng đến ổn định chính trị (khủng hoảng Chính phủ triền miên ở Ba lan, Đồng âu), ôn định chính trị – xã hội là nhân tố quan trọng cho cải cách. Oải tổ trên thực tế là cải tổ con người nhằm xóa bở hành vi, tế lối và tư duy kinh tế hành chính quan liêu.  Vì vậy, thái độ của dân chúng, các cơ quan, tổ chức là yếu tố rất quan trọng liên quan đến thành bại của cải tổ.
Kết luận: Chuyển sang kinh tế thị trường là mục tiêu được chấp nhận ở nhiều nước, những phương thức thực hiện ở mỗi nước là khác nhau. Công việc khó khăn nhất là thuyết phục và thay đổi phương thức hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, dân cư, môi quốc gia cân căn cứ vào bối cảnh lịch sử, văn hóa, kinh tế của mình để tìm con đường phát triển phù hợp.
        Xuất phát điểm cửa Việt nam:
       Ngoài những đặc điểm giống các nước XHCN, Việt nam chuyển sang cơ chế thị trường với hai nét đặc trưng lớn sau đây:
        Do nhiều nguyên nhân để lại, lực lượng sản xuất (cơ sở vật chất – kỹ thuật), hạ tầng cơ sở quá lạc hậu, tiềm lực kinh tế (đặc biệt là nguồn vốn) rất hạn chế.
         Việt nam chuyển sang kinh tế thị trường trong hoàn cảnh không thuận lợi:
– Mất thị trường, nguồn hỗ trợ trước đây từ Đồng âu và Liên Xô (cũ).
– Thiếu sự hỗ trợ tài chính chính thức từ các nước công nghiệp phát triển.
– Bị bao vây kinh tế lâu dài, toàn diện của Mỹ.

Việt nam chuyển sang cơ chế thị trường

         Hiện nay, nếu nhìn tổng quát, kinh tế Việt nam giống giai đoạn phát triển ban đầu của các nước mới công nghiệp hóa Đồng và Đồng Nam Ắ với các đặc trưng cụ thể sau:
Một là, tài nguyên phong phó, Việt nam nằm ở vị trí trung tâm của một khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, có bờ biển dài, giao lưu thuận lợí.
Hai là, nguồn nhân lực tuyệt vời, nếu căn cứ vào tuổi thọ, tỷ lê tử vong và tỷ lệ học sinh biết đọc biết viết.
Ba là, khu vực quốc doanh nhở hơn các nước XHCN đang cải tổ. Nếu tính quy mô khu vực kế hoạch hóa thì Việt nam giống các nền kinh tế thị trường đang phát triển hơn là giống các nền kinh tế kế hoạch.
Bốn là, tình trạng tài chính rất nghèo. Tích lũy của Chính phủ còn ở mức âm, tỷ lê tích lũy của cả nước thấp. Về mặt này, Việt nam khác xa Trung quốc. Tổng tích lũy của Trung quốc là 36% TSP quốc nội, nợ nước ngoài-năm 89 là 10% TSPQD.



Sự đòi hỏi của kinh tế thị trường đối với tài chính

        Nguồn gốc là ờ chỗ tiền tài chính cấp phát ra để mui hàng không tuân thủ quy luật, hy sinh lợi ích Nhà nước vì bị mua chuộc. Nhà nước trở thành ngươi luôn bị lừa, bị mua chuộc, bị lợi dụng nền tài chính Nhà nước phải nghèo đi. Qua phân tích trên có thể đi đến kết luận:
1/ Nhà nước có vai trò quyết định trong việc điều hành kinh tế vĩ mô thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế – xã hội.
2/ Tài chính có vị trí hai mặt:
– Vừa là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành vĩ mô có hiệu quả.
– Vừa là sức mạnh với các quỹ tiền tệ hoạt động sinh lời, hoạt động theo quy luật thông qua ngân sách Nhà nước. Thuế, bảo hiểm, kho bạc… với tư cách người mua, người bán trong thị trường để thực hiện kiểm kê, kiểm soát bằng đồng tiền.

kinh tế thị trường đối với tài chính

Vị trí đó gắn với điều kiện là Nhà nước và tổ chức tài chính có năng lực thật sự về 2 mặt:
– Có nhận thức hiểu biết sâu về kinh tế thị trường, cơ chế thị trường, về sức mạnh của đồng tiền. Dưới con mắt tài chính là tiền di động, tiền sinh lợi, tiền giữ được chữ tín, tiền để Chính phủ chi tiêu, tiền để trợ giúp người nghèo,… chứ không phải là hiện vật, là sản xuất vật phẩm cụ thể.
– Có thực lực biểu hiện: có khả năng thu, có khả năng chi, có khả năng vay nợ và trả nợ… có khả năng dự trữ, sau cùng là một chính sách tài chính quốc gia ổn định có lòng tin của dân chúng: dân chúng tin vào đồng tiền của Chính phủ, dân chúng tin tín phiếu kho bạc, dân chúng tin vào sự bảo hiểm Nhà nước v.v… Đó chính là vị trí to lớn của tài chính để thăng bằng ngấn sách.
– Có thực lực còn biểu hiện ở khả năng trình độ người cán bộ tài chính, tổ chức tài chính tinh gọn, xã hội vừa tin, vừa sợ, vừa kính nể.
Đó là tất cả sự đòi hỏi của kinh tế thị trường đối với tài chính , hiện nay.


Đọc thêm tại:

Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vi mô của Nhà nước

       Xuất phát từ tính chất và đặc điểm của tài chính là vừa gắn liên với tính chất và đặc điểm của Nhà nước lại vừa nảy sinh từ kinh tế hàng hóa nền trong điều hành vĩ mô, nó có 2 vai trò cơ bản:
Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vi mô của Nhà nước:
        Trước hết Nhà nước thông qua quan hê tài chính để xây dựng một chính sách tài chính quốc gia có tính chiến lược, thể hiện ở các mặt sau:

Tài chính là công cụ trọng yếu

         Thông qua các quan hệ tài chính cho phép để tạo vốn, huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các nguồn tài nguyên và giá trị tài sản quốc gia. Của cải quốc gia xét về mặt hiện vật như máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ có thể vẫn hoạt động ở một chỗ cố định… trái lại, xét về mặt tiền tệ của mọi của cải thì nó có thể tuân hoàn di động nhanh hơn, linh hoạt hơn, tạo ra những khả năng mới to lớn hơn thông qua quỹ khấu hao, quỹ bảo hiểm, quỹ cổ phần v.v… Chẳng hạn thiết bị máy móc nhà máy xi măng A vẫn hoạt động ở địa điểm A. Nhưng vốn bằng tiền của thiết bị máy móc đó thông qua quỹ khấu hao, quỹ bảo hiểm đã tái hiện lại dưới hình thức đổi mới tiền tiến và hiện đại ở nhiều nơi khác. Nhà nước có thể thông qua tài chính để đầu tư thiết bị Nhà máy ở tỉnh B, nhưng thông qua cổ phân hóa Nhà nước có thể vừa duy trì nhà máy cũ hoạt động và rút vốn ra xây dựng một nhà máy mới với hai tác dụng:
– Gây áp lực cạnh tranh để thúc đẩy nhà máy cũ, nhà máy tương tự phải không ngừng vươn lên.
– Tạo lập những dây chuyền công nghệ mới, nhà máy mới ở địa điểm mới v.v…
         Tóm lại, thông qua đâu tư của tài chính nhằm giữ thế cân bằng động cho toàn bộ hèn kinh tế. Đồng thời, thông qua công ty di chuyển và mới ra đời tạo động lực cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Nhà nước vừa tài trợ cứu nguy “những bàn thua trồng – thấy cho một số xí nghiệp, nhà máy công ty cả trong và ngoài kinh tế quốc doanh. Mặt khác, thông qua đâu tư tài chính mà Nhà nước góp phân làm cho cạnh tranh luôn sống động và có tác dụng tích cực. Có thể nói, thông qua quan hệ tài chính mà Nhà nước trở thành “nhà buôn sĩ chính cống” không bao giờ phải phá sản.


Đọc thêm tại:

Vấn đề ở nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường

         Kết quả ngân sách thâm hụt do nguồn thu quá ít và nhu cầu chi quá lớn là nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát.
Vừa qua, trong việc chống lạm phát, tài chính đã làm nhiều việc như cắt giảm bao cấp qua ngân sách, tăng cường tín dụng Nhà nước v.v… Song cuộc cải cách tài chính của chúng ta là chưa triệt để còn nửa vời… nèn gánh nặng quá sức đối với kinh tế quốc doanh và bộ máy Nhà nước vẫn lá áp lực rất lớn, trong khi vốn trong dân mới huy động quá ít.
        Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường đi theo các mục tiêu kinh tế-xã hội đã được xác định.
       Tài chính vừa là công cụ để góp phần điều hành kinh tế vĩ mô, vừa là lĩnh vực kinh tế hoạt đồng theo các yêu cầu của kinh tế. Chặng hạn, trong kinh tế thị trường thì tài chính vừa là người mua có trọng lượng, vừa là người bán có vai trò quyết định điều hành thị trường để điều tiết vĩ mô.

kinh tế thị trường

Chẳng hạn 1992, 6 tháng vừa qua tài chính đã bở tiền ra mua thóc tăng quỹ dự trữ quốc gia. Việc đó có hai tác dụng:
– Nhà nước là người mua chủ yếu cho nông dân, giữ giá nông sản, bảo về lợi ích cho nông dân.
– Nhà nước là người bán lương thực chủ yếu để ổn định thị trường, chặn đứng những cơn sốt gạo. Tuy còn có thiếu sót trong điều hành về giá khi mua lương thực dự trữ: như để cho một số “cai đầu dài” lợi dụng ăn chênh lệch giá. Kết quả tài chính mất tiền, nông dân không được gì, phần chênh lệch giá giữa giá Nhà nước mua và giá thị trường rơi vào túi kẻ kinh doanh. Hoặc mua thóc ở đòng bằng Sông Cửu long với mức 900 tỷ đồng không phải là nhở. Những đơn đặt hàng béo bở của Nhà nước sẽ rơi vào tay ai để gây thiệt hại cho xã hội.
       Trong các quan hệ giữ vững giá vàng và đô la có lúc đòi hỏi tài chính phải tung quỹ dự trữ ra bán để giữ giá thị trường như đấu năm 1992. Vừa rồi là những hoạt động có tính kinh doanh đòi hội tài chính phải tuân thủ theo quy luật khách quan để Nhà nước khỏi bị thiệt.
        Hiên nay, các nhà kinh doanh đã phát biểu, hàng hóa sản xuất ra bán dễ nhất, có lãi nhất là bán cho Nhà nước. Vì Nhà nước mua hàng ngàn tỷ sản phẩm, lai rất dè tính đến mức sơ hở, hớ hênh, trọng giấy tờ, quan hệ thực. Kết quả: quan chức đại diện cho bên mua lại l mua chuộc, mua càng nhiều người mua được thưởng càng lớn. Không phải mua cho chính mình mà là mua cho Nhà nước.



Vấn đề về chính sách trong quá trình chuyển đổi

       Quan trọng là tài chính phải trình Chính phủ các chính sách: Về sở hữu tài sản tư nhân, bảo vệ sở hữu tư nhân bằng văn bản pháp quy, quyền thừa kế về tài sản: một cách lâu dài, ổn định để người dân an tâm đầu tư, an tâm tích lũy.
– Về mặt xã hội: Có chính sách xây dựng tâm lý tôn trọng người giàu, làm cho họ không mặc cảm, không lo lắng: “vỗ béo rồi thịt” như các chính sách cải tạo trước đây.
         Ngoài ra tài chính có vai trò tích cực trong điều hành mục tiêu chống lạm phát hiện nay. Một trong những lý do chủ yếu gây lạm phát và tái lạm phát 12 năm qua ở nước ta chủ yếu do ngân sách bị thâm thủng quá lớn và ngày một tăng. Vì sao lại như vậy vì tài chính chưa làm được hai việc:
Một là‘ ta chưa chịu thi hành một chính sách tài chính “cứng” đối với kinh tế quốc doanh và ngân sách địa phương, ở đây đề cập tới tài chính xí nghiệp quốc doanh: do ngân sách phải cấp bù giá bù lỗ, bù lãi suất tín dụng cho vay quá thấp hàng năm cho kinh tế quốc doanh hàng ngàn tỷ để cuối cùng nhận lấy hậu quả: kinh tế quốc doanh “lãi giả lỗ thật”. Kinh tế quốc, doanh làm ăn kém hiệu quả.

quá trình chuyển đổi

– Người ta không lo kinh doanh có lãi chủ yếu chỉ lo giải trình thua lỗ xin ngân sách cấp.
– Người ta làm ăn có lãi thì lo chia nhau càng nhiều càng tốt, lo trốn sự kiểm soát của tài chính Nhà nước.
– Người ta hiểu sai tự chủ tài chính, tự chủ đi đến tự làm mất tài sản quốc gia, tự không cho ai kiểm kê kiểm soát mình cả v.v…
Hóa là: đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì tài chính như đóng cửa và cải tạo quản lý hơn là sử dụng tạo điều kiên cho lĩnh vực này phát triển.
– Có một số hoạt động kinh doanh tư nhân có nhiều tiêu cực như mua chuộc viên chức Nhà nước, hối lộ, trốn thuế… thì sự kiểm soát của tài chính quá yếu ở 3 mặt:
– Đội ngũ cán bộ để kiểm soát quá yếu
– Cơ chế kiểm soát không nghiêm
– Kết quả là buông lỏng và thất thu.
      Tài chính đứng trước tình trạng: Khu vực nắm giữ đại bộ phận vốn quốc gia thì thua lỗ luôn phải bao cấp. Còn khu vực năng động có khả năng kinh doanh thật thì nghe ngóng chờ đợi… không chịu bở vốn vào hoạt động kinh doanh.
Chỉ một số ít nhà kinh doanh ngoài quốc doanh hoạt động thì lại phát sinh nhiều tiêu cực như núp bóng quốc doanh để đâu cơ, trốn thuế, làm hàng giả… chưa xuất hiên kinh doanh văn minh thực sự.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh te thi truong, nen kinh te viet nam

Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu

         Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tề, tính sinh lãi của các bất động sản, của vốn. nhàn rỗi, của các vị trí lợi thế so sánh… mà làm cho mọi người dân có ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh các tài sản đó vào kinh doanh. Như vậy nhờ chính sách sinh lợi của tài chính mà biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền kinh doanh v.v… Điều này ở nước ta đã thể hiên một phần ở mối liên hệ kinh doanh với nước ngoài như: đất, đôi trọc, sông suối… trở thành vốn kinh doanh. Các lợi thế so sánh trở thành lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh hoạt trở thành vốn kinh doanh, chẳng hạn nhiều gia đình đã bở tiền ra tân trang lại nhà ở, thu hẹp phòng ở của gia đình để biến nhà ô thành khách sạn kinh doanh v.v…

điều hành thực hiện mục tiêu

          Tài chính góp phần điều hành thực hiện mục tiêu: tiết kiệm, tích lũy tăng đầu tư đi đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phân tăng thu nhập tăng trưởng kinh tế.
          Theo tính toán từ nay đến 1996 ta cần một khối lượng vốn tích lũy đâu tư khoảng 16% GDP hàng nãm. Khả năng để đáp ứng nhu đều tăng trưởng này về phía Chính phủ khoảng 2-3% GDP hàng năm. Vì hiện nay Chính phủ chưa có khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vậy khoảng 9 -10% vốn đầu tư còn lại do 3 nguồn sau đây quyết định:
– Huy động vốn tích lũy trong dân.
– Vốn viên trợ nước ngoài.
– Vốn do khai thác tài nguyên khoáng sản, bất động sản của quốc gia.
Trong 3 nguồn trên chủ yếu là nhằm vào huy động vốn trong dân. Bởi vì theo tính toán sơ bộ vốn trong dân còn rất lớn. Một tờ báo Mỹ tính sơ bộ thành phố Hồ Chí Minh có trên 120.000 hộ là triệu phú đô la. Vấn đề là:
– Có chính sách tài chính sinh lợi thế nào để khuyên khích dân tích lũy, dân bở vốn vào kinh doanh? Chẳng hạn ai đưa bất động sản vào kinh doanh theo các nhu cầu quốc kế dân sinh cần được miễn thuế 3 năm đầu.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế thị trường, nền kinh tế việt nam

Sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội

         Trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô không phải trong mọi trường hợp, các mục tiêu đều bổ sung cho nhau mà.thông thường là xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột giữa các mục tiêu. Chẳng hạn, giảm tỷ lệ lạm phát và giảm tỷ lệ thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh với tỷ lệ lạm phát thấp v.v... Bởi vậy, chính sách kinh tế vĩ mồ còn bao gốm sự lựa chọn giữa những mục tiêu trung tâm mà sự lựa chọn thường diễn ra không đơn giản. Chính phủ. giữ vai trò quyết định lựa chọn mục tiêu trung tâm, bố trí trật tự ưu tiền cho từng mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều này được thể hiện qua việc Chính phủ phân biệt giữa chính sách ổn định kinh tế và chính sách điều chỉnh cơ cấu trong chính sách kinh tế vĩ mô.
        Theo cách phân biệt của IMF và WB, mục tiêu của chính sách ổn định tập trung giải quyết những vấn đề có tính chất cấp bách, những vấn đề trước mắt như cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ lê lạm phát thấp còn mục tiêu trước hết của chính sách điều chỉnh là đẩy nhanh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Sự phân biệt trên có ý nghĩa trong việc bố trí sử dụng các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô và tác động đến việc bố trí, phấn bổ và bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của hến kinh tế, để cuối cùng bảo đảm thực hiện đồng bộ các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

chính sách xã hội

          Vấn đề được Chính phủ ở tất cả các nền kinh tế thị trường hết sức quan tâm trong xử lý chính sách và trong điều hành cụ thể là bảo đảm sự hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế với yêu cầu bảo đảm sự ổn định xã hội, mà trực diện là công băng xã hội. Đây là một mâu thuẫn phải xử lý lâu dài và thường xuyên trong đời sống kinh tế, vừa phải bảo đảm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đối với ổn định xã hội và công bằng xã hội, nhưng không vì mục tiêu về xã hội và công bằng xã hội mà đưa ra những công cụ chính sách làm cản trở, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế (ở đây, công bằng xã hội cần được hiểu theo nghĩa là công bằng từ trong khỏi nghiệp, tức là mọi người được tự do, tự tạo việc làm và cơ hội kinh doanh và sau đó công bằng trong phân phối thu nhập.
Quá trình này luôn diễn ra trong khuôn khổ của cơ chế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước.
Cộng hòa Liên bang Đức chủ trương giải quyết những mục tiêu kinh tế luôn gắn bó với các mục tiêu xã hội trong mô hình kinh tế thị trường xã hội.
          Ở nước ta, nhận thức về sự gắn bó giữa kinh tế và xã hội trên thực tế được đặt ra từ nhiều kế hoạch 5 năm và gân đây được xác định rõ hơn cả ve mục tiêu, giải pháp trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội của nước ta đến năm 2000, trong kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 …
         Vấn đề đặt ra hiện nay là từ trong thiết kế các chính sách kinh tế vĩ mô đến việc bố trí các công cụ kinh tế trong điều hành phải bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên quan điểm “Tất cả vì con người”.



Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái

          Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được giữ ổn định và có thể dự báo được:
Giữ ở mức cân bằng cán cấn thanh toán, chỉ cồ thể thực hiên ở những nước phát triển.
Với những nước đang và chậm phát triển, do phải mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các nguồn tín dụng phát triển, mục tiêu này đặt ra phù hợp là thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế cân được duy trì ở mức tối thiểu. Như vậy, cán cân công nợ trong cán cân thanh toán vẫn tồn tại khoản nợ nước ngoài ở mức độ cần thiết, hợp lý với với cầu phát triển kinh tế trong nước, đương nhiên phải có những đối sách, biện pháp thích hợp để trả nợ nước ngoài.
        Đối với cán cân thương mại, mục tiêu của kinh tế vĩ mô liên quan đến quan hệ kink tế đối ngoại, đòi hỏi trước hết phải thăng băng để tiến tới có xuất siêu, để giữ được lợi thế trong quan hệ kinh tế ở thị trường thế giới và hỗ trợ thực hiên các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Để cân bằng cán cân thương mại, cải thiện cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái dần phải ổn định và có thể dự báo được.

 tỷ giá hối đoái

Chế độ nhiều tỷ giá trong đó tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch) được cố định cho nhiều năm là đặc trưng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung và kìm hãm xuất khẩu, kích thích hoạt đòng đâu cơ hối đoái, thúc đẩy sự phá giá liên tục của đồng tiền Việt nam và hiệu quả chung là đẩy nhanh lạm phát ở mức độ cao.
           Trong đổi mới cơ chế kinh tế, chúng ta thực hiên chế độ tỷ giả linh hoạt có sự quản lý, can thiệp của Nhà nước. Cơ chế định tỷ giá này về cơ bản do quan hệ cung cầu ngoại tế trên thị trường quyết định đi đôi với sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu bằng biện pháp kinh tế, nhầm thực hiên liên hoàn các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Không để cho đống tiền Việt nam luôn bị phá giá, mất giá quá lớn, tuy có kích thích xuất khẩu, có thể tạo thêm chỗ làm việc trong nước nhưng nguy cơ bùng nổ tái lạm phát cao; Mặt khác, cũng không để đồng tiền Việt nam lên giá quá cao, tuy lạm phát có thể giảm xuống nhưng cán cân thương mại sẽ xấu đi, xuất khẩu giảm sút, nhập khẩu tăng lên, thúc đẩy tăng chi phí sản xuất trong nước, hệ quả là thu hẹp công ăn việc làm và chứa đựng nguy cơ suy thoái kinh tế.
Qua đó cho thấy tỷ giá hối đoái vừa là mục tiêu, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô rất nhạy bén. Khó có thể thực hiện tất cả các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong cùng một thời gian ở mức lý tưởng như có tốc độ tăng trưởng kinh tế với mức toàn dụng lao động, tỷ lệ lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán ở mức thấp, tỷ giá hối đoái ổn định.



Kiềm chế lạm phát

          Một mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô là kiểm soát lạm phát, giữ lạm phát ở mức ổn định và tỷ lệ lạm phát thấp (tỷ lệ lạm phát phù hợp với nhịp độ tăng trưởng kinh tế). Như vậy, kiềm chế lạm phát không đồng nghĩa với việc đưa tỷ lệ lạm phát tầng không.
Mục tiêu này nhằm bảo đảm sự ổn định về kinh tế, xã hội và chính trị, tạo môi trường cho mò rộng đâu tư, kinh tế thị trường phát triển.
        Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, lạm phát bị che dấu và biểu hiên ở trạng thái lạm phát ngầm. Quá trình vận hành cơ chế kinh tế mới ở nước ta không phải là nguyên nhân bùng nổ lạm phát mà là quá trình bộc lộ lạm phát ngầm thành lạm phát công khai. Nhà nước ta nhận thức rõ mục tiêu kiểm soát lạm phát trong kinh tế vĩ mô, có những quyết tâm cao và biện pháp mạnh mẽ, có kết quả. Thành tựu của chống lạm phát trong năm 1989 và ngay trong năm 1992 chứng tỏ điều đó.
         Kiềm chế lạm phát đang là chương trình số 1 trong hệ thống chương trình kinh tế – xã hội của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995 với mức cụ thể đặt ra là: đưa tỷ lê lạm phát từ 2 con số năm xuống con số năm vào những năm cuối của thời kỳ kế hoạch.

Kiềm chế lạm phát

         Mức đặt ra cho năm 1992 là kiêm chế tỷ lê lạm phát trong khoảng 30 – 40%/năm. Trong 7 tháng đầu năm 1992, tỷ lè lạm phát (CPI) bình quần là 2,1%/tháng, CPI tháng 7/1992 so với tháng 12/1991 là 13,9%. Như vậy, có nhiều triển vọng thực hiện mục tiêu kiêm chế lạm phát năm 1992 do Quốc hội đè ra.
         Với đặc điểm lạm phát ở nước ta hiện nay mang hình thái lạm phát do tăng chi phí, đi liền với tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao. Do đó, các biện pháp chống lạm phát trong mục tiêu kinh tế vĩ mô phải đồng bộ, nhất quán, không triệt tiêu lẫn nhau, bảo đảm ngay trong quá trình thực hiện các biện pháp kiên quyết để kiêm chế lạm phát vẫn tạo được môi trường kinh tế cho hoạt động SXKD phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng việc làm và kinh tế tăng trưởng ở nhịp độ khá.



Các mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô

         Hoạt động tư pháp cũng phải đổi mới đồng bộ với hoạt động lập pháp, hành pháp trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phù hợp với chủ trương phát huy nền dân chủ XHCN.
– Đổi mới hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước đồng thời với việc tổ chức các cơ quan tài phán về kinh tế.
– Bảo đảm cho các công dân tự do kinh doanh bình đẳng với các thành phần kinh tế quốc doanh, hợp tác xã, thiết lập tổ chức thích hợp để xử lý các tranh chấp giữa công dân với các cơ quan hành chính và bảo đảm trật tự quản lý.
– Hình thành từng bước một nền tư pháp với kỹ thuật tổ chức ngày càng hoàn thiên (các loại tòa), bảo đảm xét xử tất cả các loại tranh chấp trong đời sống xã hội, bảo đảm công lý và bình dẳng.
         Những vấn đề về kinh tế vĩ mô ngày càng được nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn và ngày nay mọi Chính phủ ở các nước đều nói đến trách nhiệm của mình trong các hoạt động kinh tế vĩ mô bao gồm việc lựa chọn, sắp xếp các mục tiêu, các công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô.
        Một số mục tiêu của kinh tế vĩ mô được nhiều Nhà nước pháp luật hóa như về giải quyết việc làm, thất nghiệp, công bằng xã hội…

chính sách kinh tế vĩ mô

         Việc bố trí thứ tự các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước có thể khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau về nội dung các mục tiêu điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường, được khái quát như sau.
          Tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Thước đo tổng hợp đánh giá thành tựu kinh tế của một nước là khả năng tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng các hàng hóa và các dịch vụ kinh tế, kỹ thuật, được biểu hiện qua các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm trong nước (GDP).
Mục tiêu này có thể đạt được bằng cách cải thiện hiệu quả sử dụng các nguồn lực hiện có, tìm mọi biện pháp để có thể bổ sung thêm các nguồn lực và bảo đảm việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực được bổ sung thêm. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách thích hợp để tác động đến các yếu tố làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhịp điều nhanh và liên tục. Tuy nhiên, đẩy nhanh được nhịp điệu tăng trưởng kinh tế sẽ có những tác động liên hoàn tích cực hoặc là trở ngại cho việc thực hiện các mục tiêu điều tiết vĩ mô khác, và đương nhiên đòi hỏi vai trò xử lý của Chính phủ.


Đọc thêm tại: